ForeverMissed
Large image
Stories

Share a special moment from Sach's life.

Write a story

Nét Son Rạng Rỡ

July 12
by Thoai Tran on behalf of Bao Tran
on behalf of Bao Tran
TRẦN HOÀI THƯ
Nét Son Rạng Rỡ
(Nhân này Thất Tuần của nhà văn)
Anh đi… để lại tiếc, buồn, thương
“Người lính làm thơ” thuở chiến trường
lửa đạn sục sôi mùa ác mộng
đất trời ngao ngán xứ tai ương
Bảy vòng kính cận nhoè sông suối
Ba mảnh đạn thù doạ máu xương
Bút pháp đặc thù… tơ Nguyệt Lão
Hoài Thư, Ngọc Yến bước chung đường
Chung đường gian khó buổi sang trang
Cố nén thương đau, giấu lệ tràn
Đất nước lên… nhà tù vĩ đại
Quê hương chùng… cảnh sống lầm than
Hồng ân dẫn lối xa tàn bạo
Diệu phước đưa đường lánh dã man
Xứ sở Tự Do thuyền cập bến
Trang đời tươi nét chữ Bình An
An nhiên vượt thử thách cam go
Giải cứu văn chương tự đáy mồ
Thư viện Cornell băng dặm tuyết
(Hoài) Thư Ấn Quán vịn walker
Kiên trì góp nhặt từng trang báo
Tỷ mẩn soi tìm mấy khổ thơ
Định mệnh đành hanh hay đố kỵ
Nan y, ác chứng… khó ai ngờ!
Ai ngờ ròng rã “giáp niên” dài
Kiếp nạn nhân sinh bám dẳng dai
Nhà trống đìu hiu anh chập chững
Nursing ảm đạm chị chơi vơi
“Sông Ngân Covid” bờ thăm thẳm
“Ô Thước Xe Tình” cánh lẻ loi
Há lẽ khoanh tay hàng nghịch cảnh?
Nhờ con chữ tiếp sức hà hơi
Hà hơi vực dậy chuỗi lâu đài
Văn Học Miền Nam vốn sáng tươi
Gõ phím, layout tràn hứng khởi!
Ấn hành, xuất bản xiết mừng vui!
Online sách báo từng thiêu huỷ
Blog post thơ văn trót dập vùi
Tiền định gọi tên anh Quý Sách
Nét son rạng rỡ tạc bia đời!
Triệu Bảo (Bảo Trần)
Florida 15/7/2024

ĐỌC LÊ MAI LĨNH THẤY TRẦN HOÀI THƯ

June 18
by Thoai Tran on behalf of Doãn Cẩm Liên
on behalf of Doãn Cẩm Liên
ĐỌC LÊ MAI LĨNH THẤY TRẦN HOÀI THƯ

Chuyện tức cười hết sức là Lê Mai Lĩnh thương tặng bút danh “  Tên Cowboy hai súng    ” cho Trần Hoài Thư, mà xem ra cái tên đặt cho bạn nhưng nó lại có vẻ cũng hợp với chính ông ta, ông Lê Mai Lĩnh. Là độc giả của cả hai thì tôi muốn dùng luôn cái tên “    Cowboy hai súng    ” mà đặt cho cả hai ông Trần Hoài Thư lẫn Lê Mai Lĩnh! Thêm chữ “A” và “B” để phân biệt ai là ai và tuyệt đối không phân biết thứ tự cao thấp. Trần Hoài Thư “Cowboy hai súng A” và Lê Mai Lĩnh “Cowboy hai súng B”.

Thầm nghĩ và lý giải cho cái tên “cao bồi hai súng” Trần Hoài Thư thì có phải vì những gì tuông ra từ ngòi bút Trần Hoài Thư đã khiến Lê Mai Lĩnh nghĩ ra được cái tên hay ho “    cowboy hai súng    ” này không? Và cũng vì ông Lê Mai Lĩnh dư đủ thân tình với bạn, đủ tinh tế, và đủ thông minh mà làm được việc hay hớm này. Tại sao “cao bồi” và tại sao “hai súng”?

Đọc Trần Hoài Thư là có một cảm giác tác giả rất chân thật. Chân thật từ đời sống đến ngòi bút. Ông là người góp nhặt những sự kiện thật xung quanh mình mà viết. Chuyện xã hội, chuyện đời người ở thôn quê thành thị, chuyện lính tráng chiến trường khói lửa, chuyện tình người và tình yêu thời chiến. Hình như Việt Nam mình không có chuyện thời bình thì phải. Buồn thay!

Cũng chính vì viết thật quá nên Trần Hoài Thư mới có một dáng vẻ nghênh ngang như một ông “cao bồi”. Ông viết, viết xuống mọi vấn đề lướt qua mắt, qua tai, qua mũi ông... cho nó nằm phơi nơi trang giấy. Ông đã làm nhiều người sợ bất kể “Thiệu, Kỳ, Khiêm” ở trong miền Nam, “Hồ, Duẩn, Đồng” gờm gờm từ miền Bắc, ba tướng “Lãm, Du, Quang” quân đội Việt Nam Cộng Hòa cũng phải sợ! Vì là cao bồi
nên Trần Hoài Thư chẳng biết sợ là gì, ông chọn con đường thẳng mà đi. Có nhiều chông gai ư? Thì bước qua. Bước qua không được ư? Thì phá tan nó ra. Phá không được ư? Thì trân mình chịu đựng, mà không ta thán.

Hình ảnh anh chàng “  cowboy”  miền Viễn Tây Hoa Kỳ, khi thì phi ngựa bụi đường tung tóe, khi thì xuống ngựa bước đi khệnh khạng, hai tay khuềnh khoàng chực sẵn nơi hai khẩu súng hai bên hông để giúp người thế cô, lấy lại lẽ phải. Lê Mai Lĩnh liền gắn hình ảnh này cho Trần Hoài Thư, không sai. Trần Hoài Thư người lính thám báo, hẳn là phải có súng. Súng này là súng thật. Trần Hoài Thư người của văn chương chiến trường, lấy ngòi bút gửi tâm tình cho độc giả. Ngòi bút của Trần Hoài Thư cũng là cây súng bắn những điều trái tai gai mắt; bắn những xếp lớn, những người ăn trên ngồi chốc mà làm bậy. Cây súng này không thật nhưng có uy lực riêng của nó. Đúng là hai súng rồi!

 Trở lại “Ra Biển Gọi Thầm” mà Lê Mai Lĩnh muốn kêu to, gào to và đánh động cho độc giả của Trần Hoài Thư hay và chuẩn bị đón chào một đứa con nữa sắp ra đời của bạn mình. Ông thật là một người tinh mắt nhận xét đúng tính chất bạn mình và nhiều óc khôi hài thì mới nghĩ ra cái tên thích hợp, và chữ nghĩa dư thừa để chọn chữ đúng mà dùng.

Do vậy, Lê Mai Lĩnh muốn quảng cáo cho quyển “Ra Biển Gọi Thầm” Trần Hoài Thư ông phải chọn văn phong tương xứng, phải thật là “    cowboy ” không kém để hòng đánh động được độc giả. Người viết những dòng này nhìn về hai ông Lê Mai Lĩnh và Trần Hoài Thư đâu thấy có chuyện “chim sẻ” hay “đại bàng” gìở đây!? Ai cũng oai phong, lẫm liệt hết.

Kẻ tám lạng, người nửa cân!

Trên số báo KBC tháng 12 năm 2021, đọc Lê Mai Lĩnh viết lời mở cho     
tuyển tập 21 truyện ngắn “Ra Biển Gọi Thầm”     của Trần Hoài Thư, khiến người ta tò mò muốn có trong tay quyển sách này. Bút pháp của ông hấp dẫn và thu hút lắm. Lê Mai Lĩnh viết thật, rất thật và cũng ghênh ngang cao bồi chẳng thua gì
bạn ông. Ông cũng có một khẩu súng không thật là cây bút.

Bút pháp của Lê Mai Lĩnh thật ngộ nghĩnh, khi thì ông đứng ở ngôi thứ nhất viết về bạn, về quyển sách của bạn. Khi thì ông lại ở ngôi thứ hai hoặc lầm bầm tự nhủ với mình: đừng mơ đến chuyện ngang bằng với bạn, nó là đại bàng mình chỉ là chim sẻ "...     Thế mà, với hắn, cái anh chàng Trần Hoài Thư này, thì khác. Hắn được đàn anh, bậc thầy tôn vinh, trọng vọng, nể nang ra mặt. Vì hắn đang báo hiệu một sự khủng khiếp.”     Khi thì ông như một thiền sư nói về “có” về “không” của sự đời, cái ông vừa viết về bạn mình nay lại rút ván, rút lời “    Xin quý vị hãy coi như nãy giờ tôi không nói gì hết, tôi không hiểu gì hết. Chim Sẻ làm sao hiểu được Đại Bàng, ao tù làm sao biết được ngọn nguồn của đại dương.”

Hay chưa? Nói đó mà lại không nói đó thì mới là nói! Đố ai trong số người đọc bài viết của Lê Mai Lĩnh mà không trỗi lên ý nghĩ phải có trong tay quyển sách của Trần Hoài Thư?

Đọc tiếp KBC số tháng 12 năm 2021, “    Trần Hoài Thư, tên cowboy hai súng    ” phần cuối là tiểu sử Lê Mai Lĩnh là sĩ quan quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Lại thấy thêm một chi tiết giống nhau giữa hai ông Lê Mai Lĩnh và Trần Hoài Thư là quân nhân thuộc Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa. Đi lính là phải cầm súng. Súng này là súng thật thì mới bảo vệ được đất nước. Vậy thì bạn này cũng “hai súng” có thua kém gì bạn
kia đâu?

Ngòi bút và bài vở, súng thứ hai không thật, mà Lê Mai Lĩnh sử dụng đã từng có trên tờ Nghệ Thuật, Khởi Hành, Gió Mới, Ngàn Khơi, Văn, Tiền Phong... Thế thì người đọc này không dám nói ai là đại bàng ai là chim sẻ.
Chỉ còn có thể kết luận “kẻ tám lạng, người nửa cân” mà thôi!

Với tinh thần đọc và viết, người viết này thấy mình còn thiếu sót rất nhiều phần “đọc”. Thuở còn là thanh niên, cư dân thành phố Sài Gòn, thì chỉ đọc say sưa loại “Văn chương đô thị”. Có nghĩa là đề tài thuộc vùng đô thị thành phố, những tâm tình, chuyện đời, chuyện tình, văn học nghệ thuật phục vụ cho người
“đô thị”. Để rồi ngày nay tự xét và tự đấm ngực mình đã quá thiếu sót những tác phẩm và tác giả thuộc khu vực “Văn chương chiến trường”.

Để chữa tội lỗi này, tôi nay mày mò nhiều hơn qua tờ Nguyệt san KBC, Nguyệt san Thư Quán Bản Thảo, đọc và tìm hiểu nhiều hơn những tác giả văn thơ có gốc từ quân đội. Những chàng trai một thời trong tay có “hai cây súng”. Súng thật là để bảo vệ quê hương và cây súng không thật nhưng có nhiều công năng là
ngòi bút. Ngòi bút của họ đã từng bảo vệ chính kiến, chính tư duy, chính mạng... và nhiều những chính khác nữa.

California, ngày 3 tháng 12, 2021
Doãn Cẩm Liên

Thư Quán Bản Thảo và Trần Hoài Thư “lì”

June 18
by Thoai Tran on behalf of Doãn Cẩm Liên
on behalf of Doãn Cẩm Liên
 Thư Quán Bản Thảo và Trần Hoài Thư “lì”
Hai vợ chồng chúng tôi vừa có một chuyến đi chơi chín ngày tại bờ
Đông Hoa Kỳ, bang Virginia và New Jersey. Cũng có thể gọi đó là
chuyến Trở Về Dĩ Vãng thi vị hóa chuyến đi thêm một tí. Đúng là toàn
ôn chuyện xưa thôi.
Anh xã làm quyển sách “Tuyển Tập Doãn Dân” cho nhà văn quân đội
Trần Doãn Dân. Ông đã hy sinh tại chiến trường Mùa Hè Đỏ Lửa -
Quảng Trị năm 1972. Rồi gặp gỡ nhà văn nhà thơ chiến trường Trần
Hoài Thư tại New Jersey. Cần ghi chú thêm là cả hai vị văn thơ sĩ này đã
vào làng văn từ thuở chiến trường còn sôi động giữa Quốc Gia và Cộng
Sản trước 1975. Bên cạnh đó chúng tôi còn gặp một cựu quân nhân Việt
Nam Cộng Hòa, anh Lê Văn Trạch, người chỉ trở thành văn sĩ khi ông
sang đến Hoa Kỳ, một đất nước tự do, dư ấm no và có dư thời giờ để
ông bước vào làng nghề văn. Và Như Thương người bạn đằm thắm
trong vai người tiếp lửa, tiếp nhiên liệu cho cuốn sách “Tuyển Tập Doãn
Dân”.
Toàn ban chúng tôi được tiếp đón nồng hậu bởi gia đình bác gái Doãn
Dân và năm nàng con gái của hai ông bà. Câu chuyện lẽ dĩ nhiên là xoay
quanh người bố đã quá cố gần năm mươi năm, 1972 – Mùa Hè Đỏ Lửa.
Nhà văn của “Chỗ của Huệ”, “Tiếng Gọi Thầm”, mà theo nhà phê bình
văn học Nguyễn Vy Khanh: “Ở Doãn-Dân, văn-chương là cái gì còn lại,
nơi lòng người, ở niềm tin tưởng vào một lý tưởng nhân sinh! Với một
ngôn ngữ của sự sống trung thực và hết mình!” (1)
Nửa thời gian sau của chuyến đi, chúng tôi gặp gỡ anh Trần Hoài Thư
tại New Jersey. Văn bất hư truyền về một Trần Hoài Thư người lưu trữ  
nền văn học Miền Nam Việt Nam. Ông đã thu lượm một kho tàng sách,
báo, tiểu thuyết, thơ văn, bất kể là văn chương Chiến Trường hay văn
chương Đô Thị từ các thư viện lớn của Hoa Kỳ. Ông đặc biệt quí trọng
và ưu ái nói về thư viện Cornell University Library tại New York. Nơi
đây ông và vợ đã lui tới cả trăm lần trong một thời gian dài, bất kể Xuân
Hạ Thu Đông, bất kể những ngày bão tuyết hay nắng cháy để lục và sao
chép các văn bản, bản thảo, báo chí, tạp chí văn học nghệ thuật của Miền

Nam Việt Nam cho tới 1975. Ông đã làm công việc bảo lưu và truyền bá
nền văn học Miền Nam cho những thế hệ sau với một tinh thần vô vị lợi.
Trần Hoài Thư, cũng như “con người” của chàng trai Trần Quí Sách kể
ra rất ư là đặc biệt. Cuộc đời gian nan khổ sở từ tấm bé, nghèo tiền bạc,
thiếu tình thương của cha mẹ. Rồi đến khi đi lính, vào ngành thám báo,
là một ngành vừa nguy hiểm, vừa tinh tế mọi mặt để sinh tồn và hiệu
quả cho chiến trường nên tạo ra một ông Trần Hoài Thư rất “kỳ quái” và
“hấp dẫn”.
Kỳ quái trong chuyện lấy vợ, chị Yến người yêu mến nhất đời, cho đến
chuyện đời lính trong binh nghiệp của ông, độc giả chỉ thấy chữ ba gai
đan lẫn chữ uy hùng. Ông chỉ ngủ ngon khi nằm ngoài nghĩa địa, bên
cạnh nấm mộ, dùng bia mộ che đạn kẻ thù khi chìm vào giấc ngủ say.
Bằng ngược lại, trên giường êm nệm ấm thì người mất ngủ!
Hấp dẫn. Hẳn nhiên là Trần Hoài Thư phải hấp dẫn thì mới có một
người con gái chịu lặn lội từ Cần Thơ lên kiếm gặp. Nàng gặp gỡ Trần
Hoài Thư tại tòa soạn báo Bách Khoa qua sự kết nối của ông chủ nhiệm
Lê Ngộ Châu. Chuyện tình có kết cục đẹp là chàng và nàng lấy nhau để
có một tác phẩm bằng xương thịt “Thoại” và để có cách gọi tên êm đềm
“Ba của Thoại”. Ấy vậy mà khi “Mẹ của Thoại” sau bốn lần bị nốc ao
( knock out ) bởi cái gọi là đột quỵ, chị đã gọi thẳng cái tên “Trần Hoài
Thư”, rồi đuổi anh đi về với “Phương” đi! Trần Hoài Thư ôm đầu bứt
tóc, làm gì có Phương nào trong cõi đời của anh? Về lục tìm trong Thư
Quán Bản Thảo thì mới hay rằng có một nhân vật tên Phương thật, một
cô gái điếm trên đường hành quân của người lính Bộ Binh. Thì ra nàng
ghen! Ôi trời ơi, Yến ghen trong tâm tưởng, khi khối óc của nàng đã từ
chối làm việc, thế nhưng vẫn còn một khu vực còn làm việc rất tốt đó là
khu cất giữ tình yêu của nàng với “ba Thoại”.
Chỉ nội cái tên của anh “Hoài Thư” hay “Quí Sách” cũng đủ cho thấy
anh quí sách vở, yêu văn thơ đến nhường nào. Anh ăn uống ngủ nghỉ
cùng với sách. Sách bao vây anh từ nhà trên xuống đến tầng hầm. Các
ram giấy đủ màu, bầy hàng hàng dẫy dẫy khép nép bên cầu thang lên
xuống tầng trên và tầng giữa, chực chờ được mang ra ướp tẩm thơ văn.
Trong phòng ngủ, bên cạnh chiếc giường con của anh là một lũ máy vi
tính, máy in, máy photo copy. Cùng để phục vụ cho Thư Quán Bản Thảo
là những máy đóng gáy, máy cắt xén giấy bầy la liệt dưới tầng hầm.
Chúng thật hữu dụng để nuôi dưỡng Thư Quán Bản Thảo cho đến con số
94. Trần Hoài Thư rất hài lòng với lũ máy móc này. Không có chúng
Thư Quán Bản Thảo làm sao sống được cho đến ngày nay.
Thư Quán Bản Thảo được cha Trần Hoài Thư đẻ ra. Cha sinh ra thì cha
phải nuôi dưỡng con nó. Các bạn văn cười cười và đố Trần Hoài Thư
nuôi được đứa con này sống dài lâu trong thời buổi kỹ thuật số, internet
lan tràn. Thời mà con người ta chỉ thích nhắn tin ngắn, đối thoại ngắn,
mấy ai thích đọc văn chương thơ thẩn dài dòng. Vậy mà, Trần Hoài Thư
đã nuôi dưỡng đứa con tinh thần của mình được đến gần con số 100 và
vẫn còn nuôi dài dài cho đến sức cạn thân mòn.
Với chín mươi bốn (94) số trong mười chín năm dài, Thư Quán Bản
Thảo đến tay độc giả khắp nơi gần xa đã nói lên cái đức tính “lì” của
Trần Hoài Thư. Dùng chữ “lì” là có dụng ý bao gồm cả tính can đảm,
cương quyết, và bền bỉ. Anh đã và đang làm những việc mà chỉ cái biệt
danh khá dễ thương này “lì” dán lên là đúng thật đúng. Phải không anh
Thư “lì”?
Trần Hoài Thư hít vào, thở ra cùng với thơ và văn. Suốt trong ba ngày
được kề cận, hơi thở ra của anh là thơ. Thơ bay phơi phới cho chúng tôi
hít vào:
Xe Tình – một chữ
Khi thời gian cướp của tôi gần hết
Mỗi ngày tôi vẫn đẩy xe tình
Mắt tôi lòa, ừ, thì tôi zoom in
100 chữ đánh sai, tôi chỉ cần một chữ
Một chữ mà tôi mang vào hơi thở...
...
Tôi đi đứng khó khăn, xiêu xiêu đổ đổ
Nhưng những ngón tay tôi còn nắm chặt tay em
Và khi em phát ra từ hai bờ môi câm
Một tiếng là tôi như hồi sinh trở lại...

Ba ngày khó quên
Cháu hỏi số 48
Chủ đề về Doãn Dân
Chú nói chú không còn
Nhưng sẽ in cho cháu
Thế rồi hai chú cháu
Cùng nhau xuống căn hầm
Cháu xếp giấy xếp trang
Chúa dán bìa dán gáy...
Thở ra hít vào để chúng tôi và anh Trần Hoài Thư có ba ngày dường như
dài vô tận, với tràn trề âm thanh vui, với dư thừa màu xanh tưng bừng.
Chúng tôi nói cười ròn tan, đọc thơ nói thơ, kẻ tung người hứng. Ai hết
đều vui vì có nhau. Không gian cũng như thời gian dường như ngừng
lại. Không đâu, nó vẫn trôi băng băng đó chứ. Ba ngày rồi cũng phải hết,
là chia tay. Bịn rịn làm sao tránh khỏi, nhưng Trần Hoài Thư đâu dễ
dàng để mọi người lấy đi niềm hạnh phúc của mình.     
Như bài thơ 4 câu
làm khi anh chờ khách đến và khi khách từ biệt:
Mở cửa đón chờ khách
Tay vẫy từ biệt người
Ba ngày rồi cũng hết
Chỉ còn lại tiếng cười
Chả trách chi Thư Quán Bản Thảo sống rất bền bỉ. Do vì cha đẻ của nó
Trần Hoài Thư không để bất cứ một điều gì có thể hủy hoại được anh.
Cha khỏe mạnh thì con dễ gì chết non!?
Đó, Trần Hoài Thư và Thư Quán Bản Thảo mà tôi thu tóm lại trong
trang giấy này. Và ghi lại cũng giống như thương nhớ gửi về nơi nao...!



California, ngày 20 tháng 7, 2021
Doãn Cẩm Liên

 

TRẦN HOÀI THƯ ... MÂY TRẮNG VỀ TRỜI

June 18
by Thoai Tran on behalf of Như Thương
on behalf of Như Thương
https://nhuthuongbmt.blogspot.com/2024/06/tran-hoai-thu-may-trang-ve-troi.html


TRẦN HOÀI THƯ ... MÂY TRẮNG VỀ TRỜI
 


Nhà văn TRẦN HOÀI THƯ  (1942 - 2024)

Photo by Đỗ Hoàng Ân

*****




Thì thôi mây trắng về Trời

Gian nan khổ nạn cạn lời: Biệt ly

Thế rồi nhà văn Trần Hoài Thư đã đi biệt không về với đời, với "Thư Ấn Quán” - nơi bình an, hạnh phúc nhất của Ông và từ chốn này, Ông đã viết lời "Cảm tạ văn chương".

Ngày tôi nhận được hung tin của Ông, tôi đứng sững nhìn những cuốn sách của Ông đã tặng tôi, nhìn những số ấn hành của Thư Quán Bản Thảo TQBT (Số ấn bản cuối cùng mà tôi nhận được là Giai phẩm Thư Quán Bản Thảo số 105 tháng 4/2023 – TQBT số 1 phát hành ngày 11 tháng 9 năm 2001). Vậy là TQBT sống được 22 năm qua những nhọc nhằn và đam mê của Ông, chị Yến, của bằng hữu thâm tình và các nhà văn, nhà thơ cộng tác.



Nhà văn TRẦN HOÀI THƯ (thổ địa của thư viện Đại học Cornell) và Thư Ấn Quán

Từ nơi này, những bộ sách của “Di Sản Văn Chương Miền Nam” đã ra đời

(Hình do Như Thương chụp vào tháng 7, 2021)



Sững sờ với một đầu óc trống rỗng… Sau phút giây lặng người ấy, tôi hiểu ra rằng Thư Quán Bản Thảo đã dừng chân và những tác phẩm của Ông để lại cho đời sẽ quẩn quanh trên những kệ sách của gia đình, thân hữu, trong thư viện khắp nơi và trong lòng mọi người kính trọng, mến mộ Ông.


Nhà thơ Trần Hoài Thư nói về cách thức ông in sách với kỹ thuật POD – Printing on Demand




Tóc người mây trắng nghiêng nghiêng,

Một đời sống với đường viền đam mê


Chốn này hạnh phúc Hoài Thư

Vui theo con chữ tưởng như thiên đàng



Ngỡ như thoáng giấc chiêm bao 

Đôi tay gầy guộc hôm nao xa rồi ...




Một chút keo, một chút tình

 Bao nhiêu trang sách vạn nghìn chữ thơm




Tôi nhớ màu tóc mây trắng của Ông. Nhớ mỗi lần gặp Ông thì thế nào cũng có một valy sách tặng đem về. Nhớ ánh mắt Ông rưng rưng tiễn biệt. Nhớ câu dặn dò: Mai mốt gặp nhau… Nhớ bàn tay của người Anh Cả choàng qua vai vỗ về và giọng nói trầm ấm, chậm rãi của Ông: "Ráng đi Út Như Thương” (Tôi đã gọi Ông là Anh Cả Hoài Thư kể từ khi biết Ông và Ông gọi tôi là Út Như Thương). Buổi tối khi nhận được tin Ông ra đi, tôi nằm thao thức... chả lẽ Ông ra đi thật sao??? Vì Ông nói: "Anh Cả còn nhiều việc phải làm lắm Út à". Thôi thì trả lại trần gian những bất ưng, gian nan ngần ấy đã dư thừa, khổ nạn giờ đây thôi đã dứt, bão tố cuồng phong chợt đã dừng….

Từ trong sâu thẳm đáy lòng của mỗi người, vòng nguyệt quế của những độc giả đang dành tặng cho Ông. Tôi tin rằng ở một nơi nào đó, Ông cảm nhận được điều ấy và cũng sẽ mỉm cười bên người Bạn Đời Ngọc Yến của Ông.


Ngưu Lang Trần Hoài Thư gặp Chức Nữ Ngọc Yến bên ngoài cửa Nursing Home Ashbrook, NJ

Original Photo by Trần Quí Thoại



Mới chừng 3 tuần trước khi Ông ra đi, Ông còn nói chuyện với tôi là Ông đang đi tìm SÁCH, tài liệu để làm tiếp những gì ông định làm với một giọng nói thật hăm hở, háo hức...

82 Năm trên trần gian này, Ông phải đi tới tận cùng của cái khổ nạn sao: Chăm sóc người vợ trong Nursing Home 12 năm, riêng Ông thì sống với bệnh tật trong từng giây phút của bệnh Gout, rồi đến ung thư, xạ trị, mổ xẻ...

12 Năm để chăm sóc và thăm nuôi một người bị Stroke 4 lần, con đường sáng trưa chắc cũng quen với dáng Ông cao cao, gầy gầy đi thăm vợ, hẳn nắng mưa và tuyết đổ đã từng thổn thức theo Ông. (Chị Yến bị tai biến mạch máu não lần đầu tiên vào tháng 12 năm 2012. Đến tháng 6 năm 2020 thì Ông bị Stroke).

Tôi không tin Trời Đất đã đặt chiếc vòng kim cô "Khổ nạn" lên số mệnh của hai người như thế, nhưng quả thật Ông đã quen với ngần ấy tai ương. Ông vững vàng và can đảm khi đối diện với mệnh số một cách tự tại.

Kể từ khi chị Yến ngã bệnh, Ông đã gượng đứng dậy một mình và lo toan mọi việc: Có lần Ông khoe với tôi rằng Ông kho cá cho chị Yến ngon lắm nè... Để mai đem vô Nursing Home đút cơm cho chị. Thương làm sao khi nhìn thấy nồi cá kho của nhà văn Trần Hoài Thư, thấm đẫm tình vợ chồng...Khoe nồi cá xong, Ông lại nở nụ cười hài lòng, rạng rỡ tưởng chừng như mình vừa mới làm được một việc gì đó thật tuyệt vời!

Cuộc đời của Ông và chị Yến là một điều kỳ diệu: Gắn bó và kề cận nhau trong cùng nỗi đam mê văn chương dẫu tai ương bủa vây!

Đối với tôi, Ông đã dạy cho tôi một bài học quý giá: Khi nào thấy mình gần QUỊ xuống, hãy nghĩ đến tấm gương Trần Hoài Thư và nhớ "Nụ Cười" điềm tĩnh của Ông.

Chưa bao giờ nghe Ông than vãn về cuộc đời của Ông, trái lại chỉ thấy ông phớt lờ...

Thượng Đế cho Ông được “quyền than vãn” với chữ nghĩa và Ông đã phóng bút với văn chương. Trong căn nhà của Ông, bất kỳ ở nơi nào, chỉ cần đưa tay ra là sẽ đụng vào sách vở!!!




Nơi đây có một người... đa tài, đa đoan: TRẦN HOÀI THƯ

Là nhà văn, nhà thơ, chủ nhà xuất bản, công nhân kiêm thợ sửa tất cả máy móc



Trong những ngày tháng ở trần gian, Ông đã cặm cụi làm việc, đã đọc và đã viết cũng như đã đi với dấu chân một người lính Thám báo. Bây giờ Ông đã đi những bước chân cuối cùng: Đi về rừng...Vâng, Ông về lại rừng - như ngày xưa Ông đã từng biết đến vùng đất đỏ trong tác phẩm "BAN MÊ THUỘT - NGÀY ĐẦU NGÀY CUỐI".



Trích đoạn trong "Ban Mê Thuột - Ngày đầu ngày cuối"

"...Như những cánh rừng cao su và cà phê, đến nỗi vào mùa hoa cà phê nở, cả một thị trấn như ngào ngạt hương hoa. Trong thành phố, những cây muồng hoa vàng rực bên cạnh giáng hương, trâm, bông li ti trắng, cùng những vườn bông sứ hoang dại như làm thành phố chìm vào trong nỗi man dại ngây ngất..." (trang 39).

"... Chỉ cần một Lữ đoàn Dù cũng đủ lấy lại Ban Mê Thuột. Chỉ cần những chiếc phản lực từ Nha Trang bay lên, dội bom là xong. Bởi vì, khó mà tìm được cơ hội có một cuộc tập trung quân đông đảo như lúc này. Nhưng không ai làm chuyện đó. Ban Mê Thuột mất mà không một ai tiếp cứu... Lính nhìn nhau đôi mắt rưng rưng, tuyệt vọng...." (trang 52).

Hai đoạn văn Ông viết về Tháng Ba tang thương của Ban Mê Thuột như thế đấy: Thật lãng mạn và cũng thật bi thương!

Không chừng Ông cũng ghé qua Bình Định, cầu bà Gi Quy Nhơn, Cần Thơ, Đà Lạt, quân trường Thủ Đức...chứ không chỉ ghé rừng và cũng vẫn là chị Yến lái xe như hồi xưa đến thư viện Đại học Cornell.

Xin mạn phép nghĩ về Ông như một người của trôi giạt lẫn phiêu bạt, một người rất nhỏ nhẹ dịu dàng và là người không bao giờ đầu hàng nghịch cảnh, luôn tìm lối thoát cho cuộc đời đầy gian truân của mình.

Nếu có ai hỏi tôi rằng: Tôi nhớ gì về nhà văn Trần Hoài Thư nhất, thì tôi sẽ không ngần ngại trả lời... Đó là NỤ CƯỜI của Ông! Mái tóc trắng muốt và nụ cười của Ông như "Ông Tiên", có lần tôi đã nói thế với Anh Cả Hoài Thư.



Viết để nhớ ANH CẢ HOÀI THƯ - NGƯỜI KHÂU CHỮ NGHĨA trong lòng của Út Như Thương.

Út đang đọc lại Văn Thơ di cảo của Anh Cả... đọc biết đến chừng nào mới hết đây Anh Cả ơi?

Chúc Anh Cả thật bình an ở nơi nào đó. Nơi có chị Ngọc Yến với mái tóc đen mun mà anh tấm tắc khen hoài..."...Ngày xưa tóc đen huyền vì gội bằng bồ kết. Bây giờ thay vì bồ kết, tóc Yến vẫn đen mun vì gội bằng trái khổ nạn..." (TQBT số 93 tháng 6, 2021 - Chủ đề Hạnh phúc và Khổ nạn).



Như Thương

(Tháng 6, 2024)

https://nhuthuongbmt.blogspot.com/2021/09/nha-van-tran-hoai-thu-nguoi-cua-thuy.html

June 18
by Thoai Tran on behalf of Như Thương
on behalf of Như Thương
https://nhuthuongbmt.blogspot.com/2021/09/nha-van-tran-hoai-thu-nguoi-cua-thuy.html


Tháng 7 của những ngày tháng trôi qua bình thường như bốn mùa vạn vật, nhưng bất chợt tháng 7 năm nay (2021) lại là tháng ngày đáng nhớ của riêng tôi: Tôi được gặp mặt nhà văn Trần Hoài Thư lần đầu tiên - sau bao nhiêu năm đã biết ông qua sách vở, báo chí và liên lạc bằng emails. Cảm nhận đầu tiên của tôi trước lúc khởi hành là một sự háo hức vì mình sẽ được gặp người mà tôi gọi là “Anh Cả Hoài Thư: Người khâu chữ nghĩa” trong những emails mà tôi (Út Như Thương) đã gởi đến ông.

Dẫu thời gian gặp mặt chỉ vỏn vẹn có 3 ngày (từ 13/7 đến 16/7/2021), nhưng đến lúc diện kiến Người Anh Cả ấy thì tôi đã thảng thốt, bàng hoàng, xót xa và thán phục!

 

Anh Cả đã giữ "Khúc Tình Ca Duyên nợ" dẫu đời quay cuồng với cuồng phong trong những lần tai biến mạch máu não của chị nhà. Trái tim tình yêu ấy đã chèo chống nghiệt ngã thật vững vàng, dù lắm phen chao đảo...để rồi nỗi buồn lại được viết thành thơ, lại đứng lên tiếp tục bước đi đồng hành với người Bạn Đời qua những bữa cơm tự nấu, băng mình đi trong bất kỳ thời tiết nào - để đến Nursing Home và tự mình đút cơm cho vợ ngày hai bữa chu đáo! Hiếm có thật!

Bao nhiêu năm mặn nồng đã làm nền tảng cho những ngày tháng hôm nay trong thủy chung, kiên nhẫn và chăm sóc vợ với lời nguyện cầu trong trái tim nhân lành của người chồng.

Nỗi thảng thốt đã đến khi tôi thấy đời sống thật của ông với "căn hầm tầng trệt là nhà in". Ông đã sống với chữ nghĩa của trăm năm trước tại nơi này sao? Ánh đèn vàng của cuối đời ông lại là ánh đèn vàng trong gian nhà in ấy: Hạnh Phúc! Những máy móc nặng nề và hình như đã lỗi thời được ông nâng niu, chăm chút sửa chữa để giúp ông thực hiện hoài bão "Di sản văn chương miền Nam" qua những ấn bản Thư Quán Bản Thảo (TQBT) là nỗi mừng vui khôn tả của ông khi ông nhìn thấy đứa con tinh thần của ông đang lớn dần, trưởng thành và sắp sửa mừng Thượng thọ Thư Quán Bản Thảo 100 tuổi . Cuộc đời Anh Cả, một đời sống trong đam mê với văn thơ như tên người: Quí Sách.

 

Trí nhớ của ông ẩn hiện những tàng cây xanh mướt kỷ niệm của một bóng hình giai nhân (mà sau này trở thành hiền phụ) như là một của gia bảo trong đời ông. Trong ông tiềm tàng khí phách của một người lính thám báo năm xưa lẫn những ngày tháng “là một người lính ba gai” (theo định nghĩa của ông). Khi cầm súng, ông đã đi qua cuộc chiến và sống với đồng đội bằng tất cả trái tim của một người lính trọn vẹn chân tình. Bóng dáng chiến tranh trong sự hồi tưởng của ông là tình đồng đội sẻ chia những ngày tháng gian khổ, lặn lội với cuộc chiến tàn khốc của Việt Nam, tưởng chừng như ông vẫn còn tại ngũ!!! Màu áo trận vẫn chưa phai nhòa trong ký ức của ông, vẫn lẫm liệt, vẫn uy nghi như ánh mặt trời trong lòng ông. Khi tàn cơn binh biến, bên người vợ hiền, ông hiến dâng đời mình cho niềm đam mê chữ nghĩa.

Nhưng Thượng Đế đã và đang thử thách ông, thử thách cái "Hạnh Phúc Trăm Năm" của lời thề nguyền Phu Phụ năm xưa… Định mệnh của đôi uyên ương đã phải đi qua cầu đoạn trường: Bệnh hoạn! Sự chịu đựng. Sự kiên nhẫn. Sự Thương Yêu hết mực trong cuộc tình ấy... đếm được bao nhiêu người như ông?! Cảm tạ người Anh Cả Hoài Thư đã để lại trong lòng Út Như Thương những hình ảnh đẹp và cao quý đó. Thật ngưỡng mộ!!!

 


Vết thương trong lòng vỡ vụn khi ông nhìn thấy người vợ dấu yêu trong Nursing Home.

Vết đau nào cũng rưng rưng nỗi buồn, phải thế không hỡi Người Chung Thủy với Tình Yêu và Chung Thủy với Chữ Nghĩa Văn Chương. Ôi! Những vết kim đâm khi khâu từng trang sách để lại cho đời sau....

Phút giây hội ngộ vỡ vạn niềm vui và buổi chia tay là những giọt buồn rưng rưng trong ánh mắt tiễn đưa.  

Bây giờ và về sau, khi tôi cầm quyển Thư Quán Bản Thảo trên tay, lòng tôi sẽ bồi hồi xúc động vô vàn. Tôi cũng sẽ hình dung lại những hình ảnh của ông với màu tóc bạc phơi phong trần và nơi ông sống: Nhà in Trần Hoài Thư.

Dẫu màu thời gian có phai đi, nhưng mãi mãi ông vẫn là Trần Hoài Thư của Quí Sách!!!

 

NGƯỜI KHÂU CHỮ NGHĨA

 

Nơi người ở núi rừng quanh phố lạ

Căn gác sầu, lặng lẽ bóng cô đơn

Xin chữ nghĩa đừng để người vấp ngã

Dẫu nhân gian đầy bao nỗi nguồn cơn

Trong thư viện. dáng ngồi người tóc bạc

Từ tóc xanh... vẫn cặm cụi cuộc chơi

Chơi với chữ, dấu nỗi buồn tan tác

Lặng thiên thu đi tận đến cuối đời

Tạ ơn Người: Vết kim đâm rướm máu

Bàn tay nào khâu chữ nghĩa hiền nhân

Đời thám kích nay trở về nương náu

Với mực in, hồn sách chốn hồng trần

Ta sẽ về ngắm mây pha đầu núi

Về thăm người đứng đợi hàng giậu xanh

Mắt rưng rưng tiễn nhau giây phút cuối

Đất trời này vẫn còn đấy thiên thanh

 

Như Thương

 .

TRẦN HOÀI THƯ VÀ NHÓM DOÃN DÂN

June 18
by Thoai Tran on behalf of Lê văn Trạch
on behalf of Lê văn Trạch
TRẦN HOÀI THƯ VÀ NHÓM DOÃN DÂN




Có hai nhân vật – hai người lính cầm bút – tôi được may mắn gặp gỡ trong khoảng cách thời gian 50 năm. Màu áo lính và màu mực trên những trang sách của hai người cầm bút và cầm súng ấy từ thời còn son trẻ đến lúc tuổi xế chiều đã làm tôi xúc động và ngưỡng mộ: Nhà văn Trần Doãn Dân và nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư.






Duyên khởi từ sau khi Tạp chí VĂN, số tháng 4 năm 1973 và THƯ QUÁN BẢN THẢO số 46 tháng 4 năm 2011 được viết với cùng chủ đề: Tưởng niệm nhà văn Doãn Dân - ngoài những kỷ niệm và tình cảm dành cho Ông, mọi người ngạc nhiên tại sao vào tháng 2/1972 ông Doãn Dân còn ở Saigon mà tháng 4 lại chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng.

Tôi có dịp ăn, ở và làm việc chung với Đại úy Trần Doãn Dân một thời gian ngắn trong Cổ Thành Quảng Trị. Có thể đầu tháng 3/1972, Ông thuyên chuyển ra Phòng 2, Bộ Tư Lệnh Quân Đoàn I, tại Đà Nẵng và khi chiến sự Quảng Trị bùng nổ, Ông được cử làm đại diện cho Phòng 2 Quân đoàn I tại Phòng 2 Bộ Tư Lệnh Sư đoàn 3 Bộ Binh. Ông di tản trước và chẳng may bị thương nặng, nên phải nằm lại và qua đời.

Tôi tìm tòi thêm một số tư liệu để viết bài "Nhà văn Doãn Dân: Phận đời nghiệt ngã" với mong muốn giải tỏa những thắc mắc trên và có thể gia đình Ông đọc được. Đoản văn đơn thuần chỉ là hạt giống, cần nhiều yếu tố khách quan tác động, đủ duyên để đơm hoa kết trái: Bài đăng trên Nguyệt san KBC, số tháng 8 năm 2020, sau đó được anh Tám Tình Tang đọc trên Youtube. Điều bất ngờ thú vị là vào ngày 31/10/2020, con gái của nhà văn Doãn Dân nghe được Youtube rồi tìm cách liên lạc với tôi. Câu chuyện những tưởng dừng lại ở đó, nhưng năm người con gái của Ông trong niềm khao khát muốn biết rõ thêm cuộc đời binh nghiệp và sự nghiệp văn chương của Bố và qua gợi ý của anh Nguyễn Đình Hiếu, Ban Biên Tập của Nguyệt san KBC, mọi người quyết định tiến hành thực hiện TUYỂN TẬP DOÃN DÂN, đại diện gồm: Lê văn Trạch (Tennessee), Nguyễn Đình Hiếu (California), Như Thương (Florida) và Thúy Khanh (Texas) – với mục đích gom tất cả những tác phẩm của Ông và các bạn văn viết về Ông.




Tháng 7 năm 2021, chúng tôi cùng đến Virginia, nơi các con Ông đang sinh sống để thảo luận cụ thể về nội dung và hình thức cho Tuyển tập Doãn Dân. Sau một ngày trao đổi ý kiến và cùng đồng thuận về phương thức thực hiện. Khi đã xong mọi việc, tất cả về New Jersey để thăm nhà văn Trần Hoài Thư, người vừa là Bạn Văn và cũng là Bạn Chiến Đấu khi cùng phục vụ tại Sư đoàn 22 Bộ Binh, để được nghe kể những kỷ niệm trong thời gian đó...

Khu phố nhỏ yên tĩnh, con đường với hai hàng cây thẳng tắp dẫn đến căn nhà, bề ngoài trông khiêm tốn, nhưng đây là trung tâm phục hoạt cả một nền Văn học Nghệ thuật miền Nam... Từ xa đã thấy Anh đứng ngang cửa vẫy tay chào, dáng gầy dong dỏng cao... Mọi người lần lượt vào nhà, phòng khách hẹp, chỗ nào cũng đầy sách đủ các thể loại và các thứ linh tinh khác. Không gian như lắng xuống, trong lòng ai cũng có cảm giác ngậm ngùi khi Anh nhắc đến tháng ngày gian khó nhưng ấm áp cùng với nhà văn Doãn Dân tại Qui Nhơn.




Anh vẫn nhớ như in hình ảnh nhà văn Doãn Dân lái chiếc xe Dodge lên doanh trại đơn vị thăm Anh sau mỗi chuyến hành quân. Những tâm tình chia sẻ chuyện riêng tư, chuyện văn nghệ tiếp tục diễn ra vào buổi sáng uống trà tại khách sạn hay trong những quán ăn. Anh say sưa nói, chân thành và cởi mở, trải lòng ra, nhớ đâu nói đó về mối tình đầu và khoảng cách mong manh giữa sống và chết, chứng kiến những cái chết tức tưởi, đắng lòng mà bất lực! Anh sống cô đơn và chăm sóc người vợ đang bệnh Alzheimer trong nursing home, bằng tình yêu thương, nghẹn ngào khi nhìn vợ mình một thời thông minh, nhanh nhẹn, giờ đây như vô hồn, dửng dưng trước mọi chuyện.




Căn nhà của Anh vừa là tòa soạn, nhà in, nhà xuất bản với đầy đủ máy móc cần thiết cho việc phát hành một cuốn sách. Mặc dầu trăm mối tơ vò, Anh vẫn tỉnh táo, sắp xếp công việc đâu vào đó, đều đặn cho ra tạp chí Thư Quán Bản Thảo, chuẩn bị đến số 100!!! Cả đời Anh gắn bó với văn chương chữ nghĩa, chủ trương văn nghệ là phải dấn thân. Nhà văn phải có trách nhiệm thể hiện trung thực xã hội mình đang sống, nhất là trong thời chiến, chứ không thể làm một kẻ "đứng bên lề" được! Anh không đồng thuận và có những ý kiến khá gay gắt với những người viết feuilleton, xem họ như là "thợ văn" chuyên viết những chuyện tình éo le, cụp lạc để câu độc giả, hàng ngày đăng báo, được 100 số gom lại in thành sách. Anh xem đó là "sản phẩm" chứ không là tác phẩm! Nhà văn phải xem tác phẩm của mình như những đứa con, chăm chút thai nghén bằng tất cả tim óc. Anh cảm thấy chút phấn chấn trong lòng khi biết các thế hệ trẻ trong nước hiện nay đã quan tâm tìm hiểu văn học nghệ thuật miền Nam.

Nhân việc Nhà Xuất bản Nhã Nam ở Hà Nội tái bản 5 cuốn sách của nhà văn Nguyễn thị Hoàng, được rêu rao là: "Sự trở về của văn chương đô thị miền Nam", Anh Trần Hoài Thư cho đó là hành động khiên cưỡng, tuyên truyền vô ích, tránh né nhìn nhận một nền văn học miền Nam đầy sức sống và nhân bản. Nhà văn miền Nam hoàn toàn tự do trong tư tưởng và quan niệm sáng tác, cốt lõi của tác phẩm thể hiện tính giáo dục con người để đạt đến Chân Thiện Mỹ. Người cầm bút miền Bắc không có những điều đó, họ "dắt nhau đi dưới bảng chỉ đường trí tuệ" hoặc "Mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi trên con đường làng dài và hẹp". Họ có mặc cảm và ganh tị nên đã gọi "Văn chương đô thị miền Nam" như đã từng gọi một cách xách mé "chính quyền Saigon, quân đội Saigon"!





Tôi được ưu ái cho ghép với Anh thành "hai người lính già", cùng cặp kè trong mấy ngày ở New Jersey, được tặng những tác phẩm đắc ý của Anh và các tác giả mà tôi tâm đắc như nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Tô Thùy Yên, cùng một số Thư Quán Bản Thảo tiêu biểu về Người Lính như "Văn chương chửi thề", "Ba lô mang theo hồn Thơ Văn", đặc biệt là bức tranh "Hy sinh bảo vệ Tổ quốc".




Ngày 28/4/2022, chúng tôi hội tụ về Virginia để Tưởng niệm 50 năm ngày mất của nhà văn Doãn Dân và ra mắt "Tuyển tập Doãn Dân". Ngoài nhóm thực hiện, còn có nhà văn Trần Hoài Thư đến từ New Jersey. Ngày 29/4/2022 đúng 50 năm ngày Ông nằm lại trên Đại Lộ Kinh Hoàng, lễ giỗ, bàn thờ được thực hiện theo nghi lễ cổ truyền văn hóa Việt với lư hương, bát nước, hoa trái và phẩm vật chính là "Tuyển tập Doãn Dân" được đặt trang trọng trước di ảnh của Ông. Trong khói hương nghi ngút, tâm thái mọi người như lắng đọng hướng về với sự cung kính để tưởng niệm.

Nhà văn Trần Hoài Thư, một chiến hữu và là bạn văn từ những ngày chinh chiến tại Bình Định đã kể lại những kỷ niệm của thời binh lửa và hành trình đi tìm bài vở cho số Tưởng niệm tháng 4 năm 2011. Trong lần đi tìm tác phẩm "Bàn tay cho Yến", anh chị Hoài Thư - Ngọc Yến bị bão tuyết vùi lấp, nhưng thoát ra an toàn một cách kỳ diệu.

“Hôm nay trở lại Virginia sau 10 năm, bao điều dâng lên trong lòng, ngậm ngùi với bài thơ viết vội:

Không mơ ước gì ngoài bàn tay cho Yến dấu yêu

Để tôi có thể nắm lấy bàn tay mà siết chặt

Như nhà văn Doãn Dân với lời cuối cùng trước khi tử trận

Muốn tác phẩm của mình có tựa “Bàn tay cho Yến” trầm luân



Giờ em chịu bỏ cõi trần

Nhưng tay em vẫn còn cầm tay tôi

Cầm tay, nghe chặt, ấm hơi

Tôi không nỡ nói một lời chia tay



May chỉ còn bàn tay này

Để Em nắm chắc trong ngày biệt ly

Thì biệt ly, thì giã từ

Cớ sao ngón ngắn, ngón dài không buông”

(Trần Hoài Thư)







Một ngày vào năm 2012, chị Ngọc Yến ngã bệnh, được đưa vào nursing home. Thế là ròng rã 12 năm, hàng tuần Anh đến chăm sóc, thủ thỉ với Chị: Người Tình, Người Vợ, Người Đồng Hành trên con đường phục hoạt văn học nghệ thuật miền Nam.

Đến ngày 27/4/2024, Chị lặng lẽ ra đi và ngày 10/5/2024 tang lễ được tổ chức đơn giản chỉ trong gia đình và một số thân hữu. Nhóm Doãn Dân có Thúy Khanh và vợ chồng Ân-Quỳnh Như.

Chỉ vỏn vẹn 12 ngày sau khoảnh khắc tiễn biệt Chị, ngày 22/5/2024, Anh nhập viện do viêm phổi và viêm túi mật.

Vào lúc 10 giờ 15 phút sáng ngày 24/5/2024, Anh hôn mê sâu và đến 1 giờ 15 phút trưa cùng ngày, tình trạng của Anh trở nên nặng hơn vì bị xuất huyết não. Tuy nhiên, sau đó Anh tỉnh lại.

Biết tình hình sẽ không khả quan hơn, nên ngày 25/5/2024, vợ chồng Ân-Quỳnh Như và Thúy Uyên quyết định đến thăm Anh tại bệnh viện HMH-JFK University Medical Center (John F. Kennedy University Medical Center, an affiliate of Hackensack Meridian Health).

Đến nơi lúc 2 giờ chiều, Anh tỉnh lại, nhận ra mọi người và thều thào gọi tên cháu Quỳnh Như.

Chiều ngày 26/5/2024, Anh được đưa vào Hospice và đến sáng thứ hai ngày 27/5/2024 vào lúc 6 giờ 35 phút sáng, Anh Trần Hoài Thư thanh thản ra đi, đúng một tháng kể từ ngày chị Ngọc Yến mất.

***

Nhóm chúng tôi gồm tôi, vợ chồng anh chị Nguyễn Đình Hiếu - Doãn Cẩm Liên, Như Thương, các cháu Thúy Khanh, Thúy Hạnh, Thúy Hương, Thúy Uyên và vợ chồng Đỗ Hoàng Ân - Quỳnh Như đã có kế hoạch vào ngày 21/6/2024 đến New Jersey thăm Anh, nhưng không bao giờ thực hiện được và chúng tôi đã đổi vé để ngày 8/6/2024 về dự Tang lễ.



Từ sáng sớm, tám người lên đường. Khi đến trạm nghỉ ở tiểu bang Delaware, bất ngờ gặp nhóm gồm các anh Phạm văn Nhàn, vợ chồng Phạm Cao Hoàng, vợ chồng Nguyễn Minh Nữu cũng gồm tám người.

Nhà quàn Memorial Funeral Home tọa lạc khiêm tốn trong thị trấn Fanwood, tĩnh lặng, thanh vắng với màu lá rừng xanh biếc vây quanh.

Từ Boston về có anh Trần Trung Đạo và anh Lê Đình Thành. Anh chị Phan Thông Hưng, Hậu duệ VNCH Hải ngoại, đến từ Philaphelphia, anh Trần Thanh Bảo từ Orlando Florida, vợ chồng chị Thục Uyên đến từ New York và một số quý vị khác.

Tang quyến gồm vợ chồng cháu Trần Quí Thoại và hai con, anh Trần Quí Hưng, cháu gọi chú ruột từ Dallas và vợ chồng người cháu của chị Ngọc Yến.




Tang lễ tổ chức đơn giản nhưng trang nghiêm, ấm cúng theo nghi lễ Phật giáo do một vị Thầy và một số đạo hữu từ New York đến. Có thể thấy rõ được sự nghiệp của nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư cả một đời cống hiến cho đất nước, từng đổ máu trong chiến tranh và miệt mài chiến đấu không ngưng nghỉ để phục hồi và phát huy nền văn hóa và văn học nghệ thuật nơi xứ người, nên các bạn văn của anh đã đề nghị với gia đình cho phủ cờ trên quan tài; mặc dầu không có nghi lễ, nhưng thể hiện tấm lòng quý kính với một người lính cầm bút suốt đời hy sinh cho lý tưởng mình đã phụng thờ!



Các anh Phạm Văn Nhàn, Phạm Cao Hoàng, Nguyễn Minh Nữu từng gắn bó một thời gian dài với Anh trong nước, chia sẻ bao kỷ niệm vui buồn trong đam mê viết lách và tính ngang bướng bất cần đời khi có những sự kiện cười ra nước mắt; anh Tô Thẩm Huy trình bày những nhận xét sắc nét về chất văn học trong thơ văn của Anh.

Anh Trần Trung Đạo người gần gũi trong mọi hoạt động đã kể cho mọi người nghe thời gian cả hai "đi giang hồ" qua nhiều thành phố trong nước Mỹ với tâm nguyện cùng nhau bảo tồn văn hóa dân tộc và tính chính danh của người Việt Quốc Gia, không ngại ngùng tranh luận, phản bác luận điệu xuyên tạc của các thành viên từ Việt Nam qua trong các buổi hội thảo mang tính quốc tế, vạch trần các hành động bôi nhọ, phỉ báng người lính Việt Nam Cộng Hòa. Anh Trần Thanh Bảo từ Orlando, Florida, bùi ngùi nhắc lại kỷ niệm hai năm trước đã đến ở với Anh một tuần lễ, nấu những món ăn hạp khẩu vị và mang đến bức hình chụp được khi Anh Trần Hoài Thư vào chăm sóc chị Ngọc Yến...

Sau lời cảm tạ của đại diện tang quyến, lễ Di quan đến nhà hỏa thiêu Somerset Hills Memorial Park cách đó khá xa. Tang lễ chấm dứt qua lời chia sẻ của anh Phạm Văn Nhàn, anh Tô Thẩm Huy

với cháu Trần Quí Thoại và lời dẫn tụng kinh hồi hướng của anh Trần Quí Hưng.





Mọi người trở lại căn nhà của Anh, ở thành phố Plainfield – nơi lưu dấu cả một đời đam mê sáng tác với trên 100 số Thư Quán Bản Thảo và phát hành nhiều đầu sách – giờ đây vắng Anh trở nên hoang lạnh! Chúng tôi ngồi lại đúng vị trí mà ba năm trước đã ngồi nghe Anh tâm sự về mối quan hệ thâm tình với nhà văn Doãn Dân. Sách của Anh cũng chẳng còn cuốn nào, đồ vật ngổn ngang, ai cũng tiếc thương Anh ra đi đột ngột!







Tất cả cùng nhau ghi lại vài tấm hình cuối cùng vì biết rồi đây sẽ không bao giờ có dịp trở lại!

Trên đường về vào chỗ nghỉ hồi sáng, không ngờ lại gặp các anh Phạm Văn Nhàn, anh Phạm Cao Hoàng,… ai cũng nghĩ đến sự lưu luyến của anh Trần Hoài Thư như luôn có mặt để dẫn dắt...




***

Hai năm rồi nhóm Doãn Dân mới có dịp gặp nhau đầy đủ – mười người – một ngày trọn vẹn để hàn huyên với bao nhiêu chuyện trong tình thân, chân chất gần gũi với không khí vui tươi, cởi mở, những kỷ niệm ban đầu và những lần gặp gỡ anh Trần Hoài Thư được kể lại... mối liên hệ tạo nên giá trị tinh thần lớn, từ đó sự quan tâm chăm sóc của các cháu cho Anh thêm sinh khí, trong lòng hưng phấn để bớt cô đơn và cũng rất vui phát hành cuốn "Trần Hoài Thư - Thơ tuyển toàn tập" cho Anh. Đã có nhiều sự kiện bất ngờ khó lý giải như ngày hôm trước trong lúc truy tìm lại Thư Quán Bản Thảo, anh Hiếu nói khi đến tập 22, lúc mở đến trang 69, hiện ra bài "Trần Hoài Thư viết về Doãn Dân", hình như cả hai vị đều linh hiển luôn ở bên cạnh chúng tôi.




Thời gian về sau này, các cháu đã tìm thêm được một số tác phẩm và di cảo của Bố, nên có ý định tái bản "Tuyển tập Doãn Dân”. Anh Hiếu hứa sẽ cố gắng hoàn thiện và hẹn gặp lại trong lần ra mắt. Ba ngày cùng nhau chan hòa sinh hoạt như các thành viên trong gia đình lâu ngày gặp lại, chúng tôi rất cảm kích về sự chăm sóc nhiệt tình của các cháu, cảm nhận được sự quý mến và thương yêu chân thành!




Cứ nghĩ mọi chuyện như thế là đủ, nhưng Quỳnh Như thông báo ý định đến thăm anh Phạm Cao Hoàng và vợ chồng anh vui vẻ chờ đón. Đây là cuộc gặp chính thức đầu tiên của nhóm với các bạn của anh Trần Hoài Thư ở xa như anh Phạm Văn Nhàn và anh Tô Thẩm Huy.

Các anh có vẻ ngạc nhiên về danh xưng "Nhóm Doãn Dân", Thúy Khanh đã trình bày cặn kẽ về nguyên nhân và quá trình hình thành. Tự nhiên có sự hội tụ đầy đủ và nêu ý kiến tiếp tục hoài bão của anh Trần Hoài Thư: Cố gắng hoàn thiện công cuộc tìm kiếm tác phẩm của nhà văn Doãn Dân. Cháu Quỳnh Như nhớ lại khoảnh khắc của giây phút cuối cùng, anh Trần Hoài Thư đã nhắc đến truyện "Cái Vòng". Thế là cùng tìm phương cách... Các anh có ý sẽ cùng với nhóm Doãn Dân, chủ yếu trông cậy vào anh Hiếu và đặc biệt là Như Thương, đang làm việc tại Florida Atlantic University Library, có nhiều cơ hội thuận lợi để mượn Tạp chí/ Nguyệt san CHỈ ĐẠO năm 1959, là nơi đã đăng bài "Cái Vòng" của nhà văn Doãn Dân.




***

Khởi đi từ bài viết ngắn với mong muốn đơn giản là để trả lời những thắc mắc của nhiều người: Tại sao nhà văn Doãn Dân chết trên Đại Lộ Kinh Hoàng? Cũng như những bài khác, tôi cố gắng nêu một cách trung thực như những gì đã xảy ra. Tôi chỉ là tay viết tài tử, ghi lại những sự kiện đi qua trong cuộc đời bằng tấm lòng và cảm nhận chân thực, nhưng không ngờ dư chấn của nó lan rộng, tạo ra bao điều khích lệ, hạnh phúc cho mình và niềm vui cho nhiều người.

Nhóm Doãn Dân hình thành ban đầu cũng chỉ để thực hiện công việc nội bộ, phát hành Tuyển Tập Doãn Dân, nhưng khi tiếp xúc với Anh Trần Hoài Thư lại mở ra một khung trời mới, không đơn thuần là văn chương chữ nghĩa nữa, mà dạt dào tình nghĩa. Qua Anh, các cháu thấy thấp thoáng hình ảnh của Bố Doãn Dân và thể hiện tình thương bằng nhiều cách. Cũng từ Anh Trần Hoài Thư, chúng tôi tiếp xúc được với nhóm bạn văn ở Washington DC và bây giờ ở Houston nữa... Sóng từ trường phát đi và có sức hội tụ mãnh liệt, chúng tôi đã kết nối với nhau!

Nhà văn, nhà thơ Trần Hoài Thư nằm xuống, thân tứ đại trở về với cát bụi theo lẽ Vô Thường của thế gian, nhưng những gì để lại bàng bạc trong lòng độc giả và những người yêu quý. Tên tuổi Anh sẽ chiếm vị trí quan trọng trong Văn học sử Việt Nam.

Sẽ không ai có thể thay thế những việc Anh đã làm, nhưng sự ra đi của Anh là một điểm đặc biệt để những người còn lại thấy trách nhiệm – trong chừng mực nào đó – tiếp bước hoài bão của Anh. Đó là cách thiết thực bày tỏ sự trân quý và lòng ngưỡng mộ.

Riêng với nhóm Doãn Dân, bằng những tình cảm quý báu đã kiến tạo được, Anh nằm xuống là một mất mát lớn, chúng tôi nguyện sẽ gần gũi nhau hơn trong tình thân ái và cố gắng gìn giữ, lưu truyền di sản do Anh đã công khó gầy dựng cho những thế hệ sau.

Mong Anh bình yên ở chốn Vĩnh Hằng....

Lê văn Trạch

(Tháng 6, 2024)




oOo












June 18
by Thoai Tran on behalf of Như Thương
on behalf of Như Thương
TRẦN HOÀI THƯ: NỐT LẶNG MỘT NHÀ THƠ




Trăm năm rồi có một ngày

Hoài Thư, người hỡi... Trời bày biệt ly

Phù hư mây trắng mà chi

Giang hồ phiêu bạt vân vi cuộc đời

.

Người theo hạt bụi tà dương

Theo cánh chim Yến vẹn đường phu thê (*)

Văn Thơ một thuở đam mê

Sách thơm còn đấy. Đi. Về...chốn nao

.

Nhớ người mây tóc trắng phau

Bên Thư Ấn Quán đêm thao thức tình

Lật bao trang sách lung linh

Cổ thư để lại vạn nghìn cảo thơm

.

Nỗi buồn như thể vô âm

Thôi thì ngần ấy thăng trầm đã qua

Nghe như giọt lệ nhạt nhòa

Khẽ lăn ... trong buổi chiều tà Di quan

.

Tháng 5 tiễn một dặm đường

Người đi để lại mười phương: Nụ cười

Có câu lục bát rã rời

Thất vần niêm luật viết lời Phân Ưu




Như Thương

(Tháng 6, 2024)




(*) Người Bạn Đời của nhà văn Trần Hoài Thư là chị Nguyễn Ngọc Yến, mất ngày 27-4-2024

Your Son

June 16
The day before my father passed away, he had several hours in which he woke up and became more responsive.  He was able to look around and acknowledged his surroundings.   I was standing next to his bed, and he suddenly pointed to me.  The nurse who was in the room with us asked my father " who is he?"   My father replied very clearly " My Son."   These words were the last words he ever spoke.

I am so proud that you called me your son.   I am so proud that you gave me the opportunity to be your son, and I will continue to carry on the legacy of you, my father, and my mother.   You will proud to call me your son.  Happy Father Day, Ba.


Vĩnh Biệt Anh Chị Trần Hoài Thư - Nguyễn Ngọc Yến

June 11
https://vietbao.com/a319219/vinh-biet-anh-chi-tran-hoai-thu-nguyen-ngoc-yen?fbclid=IwZXh0bgNhZW0CMTAAAR3asvjKaTEFyP7NfQGbIB51mbFq31fcB0cTWPY8wZx5gYEWB7en8ivEcQU_aem_AXqsKiQWj5qivAu7duuXadbPF1sxPFRlN2u5trDwrtCaqFDEdgAoVj-CjWF6D47EpQ77t_jpthFI6DYSYgcR8jJC



“Thế hệ chúng tôi đã mang đầy vết sẹo.

Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn”.

(Trần Hoài Thư)

Ngày 27/4/2024, chị Nguyễn Ngọc Yến, hiền thê nhà thơ, nhà văn Trần Hoài Thư sau 12 năm lâm trọng bệnh (2 năm an dưỡng tại tư gia và 10 năm tại viện dưỡng lão) qua đời tại Plainfield, New Jersey, hưởng thọ 83 tuổi. Lễ Hỏa Táng trưa ngày 10/5/2024 tại Memorial Funeral Home Fanwood, New Jersey.
Trảỉ qua 53 năm (1971-2024, không kể thời gian THT lao tù và vượt biên) vợ chồng Trần Hoài Thư - Nguyễn Ngọc Yến khắng khít với nhau, chị là “linh hồn” của nhà xuất bản Thư Ấn Quán và tạp chí Thư Quán Bản Thảo đã “bỏ” anh, người thân trong gia đình về cõi vĩnh hằng.
Với nỗi đau khi vợ qua đời, anh Trần Hoài Thư đang lâm trọng bệnh nên tinh thần và sức khỏe càng thêm suy sụp. Anh chị có đứa con trai duy nhất, BS Trần Quý Thoại ở thành phố Limerick, Pennsylvania nên anh đành sống trong hoàn cảnh cô đơn!
Sáng ngày 16/5/2024, Trần Hoài Thư vĩnh biệt cõi trần, Lễ Hỏa Táng vào trưa Thứ Bảy 8/6 tại Somerset Hills Memorial Park, Basking Ridge, New Jersey.
Trong sáu thập niên cầm bút, Trần Hoài Thư quen thân rất nhiều bạn văn, nhất là thời gian thực hiện Thư Ấn Quán và Thư Quán Bản Thảo cùng với vài thân hữu ở Mỹ với các công trình biên soạn Di Sản Văn Chương Miền Nam với nhiều tác giả, tác phẩm…
Vì vậy khi được tin Trần Hoài Thư qua đời, có rất nhiều người viết để tưởng nhớ người quá cố. Trong đó, có những người đã từng sống với nhau trước và sau năm 1975, những người chưa quen biết… với sự cảm mến và ngưỡng mộ.
Trước đây tôi viết Trần Hoài Thư, Cây Sậy Giữa Đời. Trần Hoài Thư & Thủ Đức Gọi Ta Về. Trần Hoài Thư, Viết Dưới Trời Khói Lửa.
Để tỏ lòng tưởng nhớ đến sự ra đi nơi cõi trần của vợ chồng anh Trần Hoài Thư, tôi trích đăng các bài viết trong quá khứ như nén hương lòng. Vì các bài viết khá dài nên trích đoạn.
*
Buổi sáng đầu năm 1967 tôi gặp Trấn Hoài Thư tại Vũ Đình Trường của Trường Bộ Binh Thủ Đức, chúng tôi quen nhau trong Ban Biên Tập liên khóa 23 & 24 SVSQ nguyệt san BBTĐ. Tôi theo học Khóa Nguyễn Trãi I của Trường Đại Học CTCT Đà Lạt, giai đoạn đầu gởi học 4 tháng quân sự cùng với khóa 24 của Trường BBTĐ. Tháng 5/1967 tôi trở về quân trường ở Đà Lạt tiếp tục 2 năm cuộc sống quân trường. Tôi vẫn nghĩ một số anh em văn nghệ sĩ trong ban biên tập thời SVSQ sẽ về ngành CTCT như Trần Hoài Thư, Luân Hoán… thế nào cũng gặp nhau các khóa Căn Bản, Trung Cấp CTCT tại quân trường nầy. Năm 1968 gặp Phan Nhự Thức về học Khóa 4 Căn Bản CTCT, hỏi thăm Trần Hoài Thư, được biết anh lại về Đại Đội Trinh Sát của Sư Đoàn 22 BB!... Đời chiến binh đưa đẩy nhà giáo dạy toán xông pha nơi trận mạc, trở thành nhà văn, nhà thơ.
Trong bài viết Trần Hoài Thư, Cây Sậy Giữa Đời, đề cập đến tiểu sử của anh cùng với những tác phẩm thơ, văn…  và, trích vài dòng thơ và hồi ký Bằng Hữu & Trần Hoài Thư:
“Đêm giọt xuống nền Quân Y Viện
Trăng cao nguyên sáng lạnh bồi hồi
Ông nhà văn đứng bên cây sứ
Phất phơ như ngọn cỏ ngậm ngùi”
(Phan Ni Tấn)
“Ông thầy mỏng mảnh như lau sậy
Khói lửa oằn thêm sức bật thôi
Đôi vết sẹo cuồng thêm thắm mặn
Gánh văn đi dạo dọc theo đời
Sau Lưng thấp thoáng nàng Thị Lộ
Thương chàng Quý Sách ghé vai thơm”
(Luân Hoán)
Trong đó trích bài viết của Vĩnh Liêm: Trần Hoài Thư: “Diều Hâu 405” Cùng Những Chúc Thư  Của Người Lính Trận của Vĩnh Liêm
“... Khi Trần Hoài Thư đổi về Vùng IV Chiến Thuật vào năm 1971, “Diều Hâu 405” (biệt danh của Trần Hoài Thư) vẫn còn lừng lững ngang tàng qua bộ quân phục rằn ri cùng chiếc mũ rê Biệt Kích. Lúc đó, Trần Hoài Thư là phóng viên chiến trường của Vùng IV Chiến Thuật. Tuy anh không còn là Trung Đội Trưởng Biệt-Kích nữa, nhưng nét phong trần của anh do Đại Đội Thám Kích 405 Sư Đoàn 22 Bộ Binh đã tôi luyện anh qua 4 bốn năm (từ 1967 tới 1971) không dễ gì một sớm một chiều tẩy xóa nhanh được.
Trần Hoài Thư đi đi về về giữa chiến trường sình lầy Miền Tây và Tây Đô. Người yêu và cũng là hiền thê của anh là dân Tây Đô thứ thiệt. Chị Nguyễn Ngọc Yến sinh trưởng và lớn lên ở Tây Đô, nơi có bến Ninh Kiều thơ mộng.
Tây Đô cũng là nơi tập họp đông đảo văn nghệ sĩ ở Miền Tây, chẳng hạn như thi sĩ Duy Năng, thi sĩ Diên Nghị, họa sĩ Ngy Cao Nguyên, nhà văn Chu Tấn, họa sĩ Lê Triều Điển, thi sĩ Nguyễn Bá Thế, thi sĩ Lý Thị Kim Xương, ký giả Chu Sinh, thi sĩ Lộc Vũ, thi sĩ Bùi Đức Long, ký giả Hải Bằng, thi sĩ Ngũ Yên, thi sĩ Trần Kiên Thảo, thi sĩ Trần Kiêu Bạt, thi sĩ Phạm Kim, v.v...
Tôi đã gặp “Diều Hâu 405” tại Tây Đô vào thời điểm đó. Thời điểm đó cũng là thời điểm đáng để ý nhất: Sinh hoạt văn nghệ đều khắp và nổi bật nhất. Quán cà phê Góp Gió thường xuyên tổ chức các buổi sinh hoạt văn nghệ và ra mắt sách. Khi Góp Gió chết đi thì Thằng Cuội xuất hiện và thay thế vai trò của Góp Gió. Thằng Cuội được nhiều lợi điểm và lợi thế hơn Góp Gió vì nó nằm ngay tại trung tâm Tây Đô, trang trí mỹ thuật hơn, và tốn kém nhiều hơn. Thi sĩ Viên Linh và thi sĩ Cung Trầm Tưởng cũng chịu khó từ Sài Gòn bay xuống sinh hoạt với anh em văn nghệ sĩ Tây Đô...
Tháng Tư năm 1975 tan hàng. Các đường dây điện thoại trong Vùng IV Chiến Thuật đều bị cắt đứt. Thế là Chu Tấn và Trần Kiên Thảo bị kẹt lại, sau đó đi tù ở ngoài Bắc. Khi tôi xuống tới bến Ninh Kiều thì phố xá đã tiêu điều, nhà nhà kín cửa. Không làm sao liên lạc được với Trần Hoài Thư! Thế là Trần Hoài Thư ở lại và bị tù tội mất 4 năm. Con tàu tôi rời bến Ninh Kiều để ra khơi lúc 8 giờ tối ngày 30 tháng 4 năm 1975, chở theo 127 người, đa số là những khuôn mặt lạ hoắc…
Sau 5 năm cách biệt. Tôi đang ở tại Hoa Thịnh Đốn thì hay tin Trần Hoài Thư đang có mặt tại Chùa Giác Hoàng ở Hoa Thịnh Đốn. “Diều Hâu 405” đã tới Mỹ! Mừng quá đi thôi! Thế là Trần Hoài Thư, Yến và cháu Thoại đành phải dừng chân tại Suối Bạc (Silver Spring, Maryland). Chúng tôi sống một cuộc sống chật vật, nhưng không thiếu tình thương. Không khí lúc bấy giờ thật là vui vì chúng tôi đang làm báo Hành Động, tòa soạn lúc nào cũng có người lui tới. Chúng tôi tổ chức đêm văn nghệ 30 tháng 4. Trần Hoài Thư và Nguyễn Công Minh thủ vai “người tù cải tạo” trong một vở kịch rất là thành công. Đây là những tù nhân thứ thiệt nên diễn xuất rất có thần và rất thực.
Rồi thời gian trôi qua rất nhanh. Trần Hoài Thư cùng gia đình cuốn gói đi xứ khác, không phải vì công ăn việc làm mà vì sự học vấn. Trần Hoài Thư cắp sách trở lại đại học đường. Thế là anh em chúng tôi xa nhau. Tôi vẫn ở lại nơi đây, trải qua nhiều cuộc thăng trầm của cuộc đời, lên voi xuống chó nhiều lần, đôi khi cười ra nước mắt. Chuyện văn nghệ thì vẫn tiếp tục đều đều. Mái tóc thì mỗi ngày càng ngả màu muối tiêu. Trần Hoài Thư mài miệt ở đại học đường, lấy đủ hai mảnh bằng Đại học mới chịu cầm bút trở lại...
... Trong bốn năm tại 405, Trần Hoài Thư đã 3 lần bị thương ngoài mặt trận tưởng đã đi đứt. Thế mà anh còn sống sót. Còn được cơ hội cầm bút. Người lính vừa đánh giặc vừa cầm bút, đó là Trần Hoài Thư. Đại Đội 405 Thám Kích đã làm cho Trần Hoài Thư “cảm thấy mình thật hãnh diện, bởi vì tôi nguyên một giáo sư đệ nhị cấp, với đôi mắt cận 7 độ, gầy như que củi, từng được hoãn dịch vì lý do sức khỏe, lại có mặt tại một đơn vị đã từng tạo nên một thành tích kỷ lục có một không hai trong QLVNCH. Khó có một ai trong bất cứ đơn vị nào được Tướng Đỗ Cao Trí thăng cấp hai lần trong vòng hai tháng ngay tại mặt trận.” (Về Một Đại Đội Cũ). Và “Từ 405, tôi cũng đã mang 9 tác phẩm văn học đến cùng độc giả”. Thật là “Đại Đội 405 là một dấu ấn đậm sâu vào tâm trí của một người lính cũ” (sđd).
Cũng từ Đại Đội 405 Thám Kích, Trần Hoài Thư đã cưu mang 9 tác phẩm văn học đến cùng độc giả. Trần Hoài Thư tâm sự: “Chiếc bè đã đưa tôi vào dòng văn chương không phải đẹp và dịu dàng như một giấc mơ. Mà trái lại, văn chương bấy giờ là văn chương của lửa, lệ, và những gào thét, tra vấn, tử sinh. Văn chương bấy giờ là những ngày đêm trong lòng hỏa ngục, là những vết thương tóe máu đớn đau, là tiếng kêu trầm thống của một thế hệ mà, nói theo Tolstoi, chỉ những ông già bụng phệ ký giấy tuyên chiến, còn phần chết thì dành cho bọn thanh niên. Nó là văn chương mà yêu ai cứ bảo là yêu, ghét ai cứ bảo là ghét, chứ không phải từ cửa miệng đầu môi của những lãnh tụ, đồ tể chiến tranh, hay từ những môi miệng tuyên truyền tâm lý chiến. Đó là văn chương đích thật, bởi vì từng hơi thở, từng giọt lệ, từng cay đắng, thù hận, từng nỗi buồn rầu già trước tuổi đã cấy đã hằn theo từng chữ. Chúng tôi tự hào đã nói tất cả những gì chúng tôi muốn nói, muốn nghĩ, muốn tra vấn. Chúng tôi đã tạo nên những trận sấm sét phá sập nền văn chương tháp ngà. Chất liệu văn chương của chúng tôi không phải là từ đơn đặt hàng của chế độ, hay những món hàng làm dáng du nhập từ ngoại quốc mà là sự thật bằng trái phá, bằng mồ mả oan khiên, bằng những người như chúng tôi bị nướng thiêu trong lò lửa chiến tranh.” (Về Những Trang Sách Cũ, sđd)...
(Vĩnh Liêm)
Thời gian Trần Hoài Thư ở đơn vị tác chiến, cận kề với cái chết, sát cánh cùng các chiến hữu khi vào sinh ra tử cũng là chất liệu để sáng tác với thân phận người lính trong chiến tranh. Tháng ngày ở Quy Nhơn và Tuy Hòa, THT sống giang hồ lãng tử cùng với anh em văn nghệ nơi đó và bạn văn từ quân trường đang phục vụ tại Quảng Ngãi.
Trong bài Trần Hoài Thư & Thủ Đức Gọi Ta Về của tôi, với 9 tháng quân trường, anh viết về hình ảnh thời SVSQ. Trích những đoạn trong TĐGTV của Trần Hoài Thư khi ấn hành năm 2001:
“... Ta đang nhớ về Thủ Đức như bạn ta đang nhớ. Có phải đêm qua gió quá dữ để bãi bắn rụng đầy lá cao su. Và quân trường những cơn mưa lá ngâu đã rụng xuống doanh trại. Gió lộng như từ tứ phương tụ hội về đồi. Gió mang suốt ngày khắp nơi vang vang lời ca Đường trường xa và nhịp đếm Một Hai Ba Bốn. Ô hay, ta gầy còm, trên dưới 40 ký, thế mà cũng chịu đựng được sao. Quân trường đổ mồ hôi. Chiến trường bớt đổ máu. Kinh nhật tụng cho giai đoạn một. Tay ta trói gà không chặt mà đòi đánh một hai. Hai chân ta đôi khi luống cuống, bước không đúng nhịp mà đòi đi diễn hành cuối khoá. Ta tập quay trái, quay phải, quay đằng sau. Chân trái phải xê dịch như thế nào, chân phải phải quay ra làm sao. 90 độ. Phải rán tập trung trí óc. Chụm chân lại. Rồi quay 90 độ. Phải rán nghĩ trong đầu. Khi đi phải bắt đầu bằng chân trái. Rán mà nhớ. Ta chẳng khác một tên học trò lúc nào cũng bị ám ảnh bởi cái roi mây của thầy. Ngày nhỏ, ta tập lính bước một hai, khẩu súng là cuống chuối hay khúc gỗ mang lên vai. Bây giờ, ta cũng vậy. Vẫn là một trò chơi bất tận. Nhưng thời nhỏ dại ấy lại quá dễ dàng, cớ sao bây giờ lại quá khó. Bằng chứng là ta bị phạt liên miên.
Bây giờ, quá xa, quá lâu để mà nhớ về những ngày tháng cũ, nhưng hình như bên tai ta vẫn còn văng vẳng tiếng hát vang lừng từ một góc trời Tăng Nhơn Phú. Cám ơn nó, bởi vì nó khiến lòng ta ấm lại giữa lúc tiếng gọi đò chiều đã dục. Không biết tới chuyến nào sẽ chở đời ta qua bên sông cô tịch. May mà tiếng hát nào như gió bão đánh bạt cái ý nghĩ đen tối bi quan. Ta đã dứng dậy đến bên khung cửa. Dưới ánh điện đường trong một đêm về sáng, ta thấy lại một vũ đình trường, với những ống đạn pháo binh sơn trắng bao quanh, ta thấy lại những đại đội đang xuôi ngược diễn hành. Có khi hai đại đội cùng di chuyển đối đầu nhau, và một bên dậm chân tại chỗ, chờ bên kia vượt qua. Không ai bận tâm lấy ai. Phải nhìn thẳng. Phải ca phải hát. Lính phải hùng. Gió làm lời ca bay bổng trên chín cổng, vang khắp bãi đồi. Khi hai chân ta bước nhịp, hai tay ta đánh theo, miệng ta cất lời, thì bạn ta cũng vậy.
Tất cả sẽ tạo nên một tập thể đồng nhất, tiến về phía trước. Trời ơi, cả một rừng cờ sắc áo như thế, khoá này tiếp đến khoá khác, biết bao nhiêu bước chân tập tành để chuẩn bị cho một cuộc lên đường, để rồi, vũ đình trường giờ đây chỉ còn lại một bãi mồ hoang phế. Tiếng ca hùng tráng ngày ấy đâu rồi. Tiếng hát đã một lần lồng lộng cùng lá cờ giữa sân ngôi trường lính ngày ấy đâu rồi. Cổ họng ta đã một thời gào to cùng tiếng ca lời hát, thế mà bây giờ nó nuốt vào đến nghẹn những bài hát kỳ lạ, lạ kỳ…
... Nhớ về một ngôi trường lính, dù chỉ là chín tháng, nhưng nỗi nhớ mang theo nỗi ngậm ngùi. Bây giờ trường đã mất. Những con ngựa hôm nào bây giờ đã lạc bầy tan tác hay đã rời bỏ đồng cỏ để về một cõi nào. Cả một thời tuổi trẻ đã hy sinh và chấp nhận vào cổng trường với niềm mong mỏi duy nhất là dâng hiến đời mình cho đất nước, quê hương bây giờ trở thành mây khói. Tự nhìn lại là mình có làm trái với bổn phận không, cái bổn phận khiêm nhường của một người lính, mình thấy lòng an ổn lạ lùng…
“Đêm di hành đầu tiên của giai đoạn Một. Khi chiếc nón sắt đội nặng trên đầu. Khi ba lô trên vai, và khẩu súng trường với những viên đạn mã tử. Khi mắt mở, tai căng, và đêm như lòng mực xạ. Ta đã trở thành một người lính rồi ư. Ta có cảm giác ngây ngất của một kẻ vừa trải qua một chuyện lạ lùng hoang tưởng. Quân đi, cả trăm, cả ngàn người, mà sao như đoàn quân ma. Không có cả tiếng ho. Tiếng cười. Không có cả một đốm lửa của điếu thuốc. Khi ra cổng trường, bỗng dưng thấy như thể ra bãi chiến. Nhà nhà vẫn còn để đèn. Xa xa, xa lộ đèn xe sáng rực. Và trên cao là tháp nước quân trường với ánh đèn chớp chớp. Ta bỗng thấy bước chân ta vững mạnh hơn. Bởi xung quanh ta là bao bước chân khác. Ta là họ và họ là ta. Họ giữ gìn ta và ta giữ gìn họ. Chúng tôi đã nương tựa nhau và bảo vệ cho nhau. Lần đầu tiên ta mới cảm nhận cái căng thẳng của thần kinh, cái lo âu vô hình giữa một lòng đêm âm u sâu thẩm. Nhưng cũng đôi khi, chợt thấy ánh đèn của nhà ai còn thắp sáng, lòng lại tự nhiên một nỗi hãnh kiêu thầm kín. Rồi đây, một ngày nào đó, ta sẽ thật sự có mặt, và ta mong được giữ gìn không những một ánh đèn mà còn cả triệu triệu ánh đèn…
Giữa các bạn ta, chắc cũng có những kẻ mơ ngày ra chiến trường, đánh đâu thắng đó, uy dũng trong màu áo hoa dù hay chết thì cũng da ngựa bọc thây…
Trong đêm di hành đầu tiên, hết đại đội này đến đại đội khác rời khỏi tuyến xuất phát là vũ đình trường để di chuyển quanh vòng đai của quân trường. Ta bây giờ là một phần tử trong một tập thể. Chúng tôi nương nhờ, bảo vệ cho nhau. Từ đó, ta mới hiểu thế nào là tình đồng đội, là sự san sẽ cùng nhau cái định mệnh chung, cái nghiệp căn chung, những tai ương chung. Từ đó người ta càng yêu thương nhau hơn, càng thông cảm cho nhau hơn.
Như vậy, ta phải cám ơn Tăng Nhơn Phú đã làm thay đổi cái nhìn của ta trước đây về cuộc chiến, về quân đội. Cám ơn bạn bè ta, những người có người vợ mới cưới, những đứa con mới sanh, hay những người kỹ sư, giáo sư, tiến sĩ, những trí thức, những nhà văn nhà thơ tên tuổi lẫy lừng, những người mà lẽ ra, Thủ đức không phải là nơi dụng võ. Họ vẫn có mặt bên ta, quanh ta, vẫn cầm súng bước đi trong đêm di hành…
Ôi những cái bóng nào của đêm xưa ấy còn để lại dấu tích hay chỉ là hạt sỏi nào trên sân. Còn đâu những âm vang của Thủ đức. Còn đâu những vì sao kỷ niệm trên đồi gió Tăng Nhơn Phú. Vâng. Dù quá mệt, quá căng thẳng, nhưng thế nào ta cũng phải ghi lại những cảm xúc kỳ diệu mà ta đã gặp trong đêm này…
Những trang giấy nào hôm qua còn mờ nhạt bởi mồ hôi, bụi, và mưa Tăng Nhơn Phú. Có ai kể là sau khi khóa chúng tôi mãn, khoá đàn em nhận trách nhiệm săn sóc nguyệt san Bộ Binh, đã xem mục Nhật Ký Quân Trường là mục thường xuyên phải có. Cảm động lắm khi họ theo ta, tiếp tục viết lại những suy nghĩ, tâm tư trên từng chặng đường gian khổ. Họ theo ta, cũng như ta đã theo khóa đàn anh tiếp tục một truyền thống có sẵn. Chính truyền thống đã mang lại niềm vinh dự. Bởi vậy mới có những người từ muôn phương trở lại để gặp lại bạn bè cùng khoá mà kể lại bao nhiêu điều, bao nhiêu chuyện dưới mái trường. Cái truyền thống của Thủ đức cũng giống như các trường đào tạo quân đội khác, cũng đàn anh gắn alpha cho đàn em. Cũng cuối năm là hành quân cuối khoá, cũng trốn trại về phố và cũng bị nhốt vào trại kỷ luật... Nhưng có lẽ ở trên đồi Tăng Nhơn Phú này, có một truyền thống mà chắc là không có trường nào có. Cái truyền thống miễn đi bãi vào ngày thứ tư kể từ sau khoá 24 của chúng tôi, dành đặc biệt cho những người sinh viên sĩ quan biên tập viên của tờ nguyệt san Bộ Binh Thủ Đức…
Ta đang viết lại đây, tim nhé. Ta đang viết lại đây, hỡi Thủ Đức, hỡi các bạn bè ta, và hỡi những người đã yêu mến văn ta nhé. Viết mà rưng rưng. Ta đã đánh mất cây viết Canon, cái phần thưởng sinh viên sĩ quan báo chí xuất sắc của khoá dành cho ta rồi. Và bây giờ những ngón tay tê buốt của tuổi già đã báo cái cơ nguy sắp bỏ bút rồi. Hở, ta sẽ sống ra sao, hở?...
Đêm Alpha. Nó là một truyền thống. Nó là sự liên hệ giữa đàn anh và đàn em, giữa người sắp sửa giã từ và những người ở lại. Nó cũng là điểm mốc cho người được đi chuyên môn và người ở lại làm lính lội bộ. Nó vang động cả trời đêm Tăng Nhơn Phú với lời hô đứng dậy quì xuống như chuyển rung cả một vũ đình trường. Người đàn anh sẽ gắn Alpha cho ta. Và anh sẽ đập vào vai ta để bày tỏ lời chúc mừng trong khi ta chào tay anh không dám động đậy...
Cái truyền thống của Thủ Đức cũng giống như các trường đào tạo quân đội khác, cũng đàn anh gắn Alpha cho đàn em. Cũng cuối năm là hành quân cuối khoá, cũng trốn trại về phố và cũng bị nhốt vào trại kỷ luật… Nhưng có lẽ ở trên đồi Tăng Nhơn Phú này, có một truyền thống mà chắc là không có trường nào có. Cái truyền thống miễn đi bãi vào ngày Thứ Tư kể từ sau Khoá 24 của chúng tôi, dành đặc biệt cho những người Sinh Viên Sĩ Quan biên tập viên của tờ nguyệt san Bộ Binh Thủ Đức”
Ban Biên Tập liên khóa 23 & 24 của tở BB Thủ Đức gồm có: Nguyên Sa, Lưu Trung Khảo, Lâm Chương, Trần Hoài Thư, Luân Hoán, Hồ Minh Dũng, Chu Tân, Mê Kung (Phan Nhự Thức), Phạm Văn Bình, Cao Thoại Châu, Vu Đoài… và tôi. Lúc đó Đại Úy Vũ Trọng Mục làm Quyền Trưởng Khối CTCT (nay ở tuổi 90, hiện ở Little Saigon 6/2024). Mỗi sáng Thứ Tư, giờ học quân sự ngoài bãi, các SVSQ trong BBT được gặp nhau để sinh hoạt).
Bài viết Luân Hoán “Trần Hoài Thư, Một Đời Quý Sách”, viết về giai đoạn nầy: “Thừa hưởng một cái tên đẹp do cha mẹ đặt cho, Trần Quý Sách chọn cho mình một bút danh thật thi vị: Trần Hoài Thư. Tên gọi như một sợi dây, trói buộc anh dính liền một đời với chữ nghĩa, sách báo…
… Tôi gặp Trần Hoài Thư tại quân trường Bộ Binh Thủ Đức, vào năm 1967. Lúc bấy giờ, quân trường đào tạo sĩ quan trừ bị, cho quân lực Việt Nam Cộng Hòa này, đang khai giảng khóa 24. Một công việc đã từ lâu được thực hiện bên cạnh chức năng huấn luyện của quân trường là sự hiện diện một nguyệt san, tiếp nối từ khóa này đến khóa khác. Nguyệt san Bộ Binh là nơi hội tụ những Sinh Viên Sĩ Quan có máu yêu thích thơ văn, ca nhạc, hội họa, điêu khắc... Khóa tôi theo học, qui tụ khá nhiều khuôn mặt đã được biết đến trong một số bộ môn nghệ thuật. Trần Hoài Thư là một trong những người này. Trước khi vào quân trường, anh đã có khá nhiều truyện ngắn được đăng trên các tạp chí Văn, Bách Khoa khởi từ năm 1964.
… Đúng ra, thời ở “KBC Bốn Ngàn Một Trăm” (quân trường Thủ Đức), tôi không có nhiều cơ hội chuyện trò với Trần Hoài Thư. Hai chúng tôi ở hai đại đội khác nhau. Doanh trại quân trường nằm trên đồi Tăng Nhơn Phú, cách Chợ Nhỏ chừng 2000 mét. Đây là một khu vực rộng lớn. Phòng ốc khang trang, dọc ngang những con đường rợp bóng cây xanh, không khác gì một thị trấn thu hẹp. Những đại đội đồn trú riêng biệt, cách nhau khá xa. Việc đi lại trong giai đoạn chưa được gắn Alpha rất đáng ngại, lớ ngớ rất dễ bị hít đất, nhảy xổm, dù với khóa 24, sự đãi ngộ kỷ luật của khóa đàn anh dành cho đàn em đã giảm thiểu tối đa. Thêm vào những trở ngại này, mỗi chúng tôi có một ít bạn thân riêng.
Trần Hoài Thư thường cặp kè với những Lâm Chương, Vương Trùng Dương… Tôi hay la cà cùng Cao Thoại Châu, Phạm Hoàng, Đỗ Toàn… Chúng tôi chỉ có cơ hội gặp nhau trong những buổi sinh hoạt tại văn phòng Khối Báo Chí. Những buổi hội tụ này khá nhiều, nhất là trong giai đoạn hai. Bên cạnh mục đích thực hiện, cải tiến tờ báo, các sĩ quan chủ trương còn muốn tạo cơ hội cho anh em đóng góp bài vở có thêm thì giờ nghỉ ngơi, trốn bớt tạp dịch ngay trong những “giờ tùy quyền”.
Trần Hoài Thư tiếp nối Mê Kung (Phan Nhự Thức sau này) khóa 23, viết đều đặn những trang Nhật Ký Quân Trường. Rất có thể còn một vài người góp tay trong mục này, nhưng Trần Hoài Thư là “nỗ lực” chính. Chuyện đi bãi, chuyện “bia lên, bia xuống”, chuyện “cơm nhà bàn” , chuyện cõng ghế trên vai đến đại giảng đường, chuyện ở 301 vân vân và vân vân được Trần Hoài Thư ghi lại, dựng lại dưới văn phong nhẹ nhàng, lôi cuốn…
Nếu lòng dạ của tôi dành cho tờ báo của quân trường thiếu tha thiết, thì ở Trần Hoài Thư khác hẳn. Anh nhiệt tình và say mê, trân quí tờ nguyệt san Bộ Binh một cách khó ai sánh được. Sự chân thành, tích cực của anh, ai cũng nhìn ra. Ban chủ biên tờ báo, cuối khóa đã tặng anh một danh hiệu xứng đáng: “Sinh Viên Sĩ Quan báo chí xuất sắc”. Kèm theo phần thưởng tinh thần này là một quà tặng rất thích hợp cho một nhà văn: một cặp bút Pilot mới cáu trong hộp cứng. “Vật nhẹ nhưng tình nghĩa nặng” có lẽ đã giúp Trần Hoài Thư nhớ đời về một thời “chín tháng quân trường”… (LH)
Là giáo sư, nhà văn, nhà thơ, gầy gò, cận thị… nhưng khi ra trường BB Thủ Đức không được phục vụ trong ngành CTCT mà về đơn vị tác chiến đã 3 lần bị thương ngoài mặt trận… Thế nhưng anh không oán hận. Người lính vừa đánh giặc vừa cầm bút, “Cảm thấy mình thật hãnh diện, bởi vì tôi nguyên một giáo sư đệ nhị cấp, với đôi mắt cận 7 độ, gầy như que củi, từng được hoãn dịch vì lý do sức khỏe, lại có mặt tại một đơn vị đã từng tạo nên một thành tích kỷ lục có một không hai trong QLVNCH”.
Với quân trường Thủ Đức, có nhiều bài viết nhưng Trần Hoài Thư đã viết thành vài tác phẩm.
Về sáng tác, như đã đề cập ở trên, quân trường và chiến trường là chất liệu đến với văn chương, là chứng nhân đối diện với thực tại, sống thật, viết thật:
“Chiếc bè đã đưa tôi vào dòng văn chương không phải đẹp và dịu dàng như một giấc mơ. Mà trái lại, văn chương bấy giờ là văn chương của lửa, lệ, và những gào thét, tra vấn, tử sinh. Văn chương bấy giờ là những ngày đêm trong lòng hỏa ngục, là những vết thương tóe máu đớn đau, là tiếng kêu trầm thống của một thế hệ mà, nói theo Tolstoi, chỉ những ông già bụng phệ ký giấy tuyên chiến, còn phần chết thì dành cho bọn thanh niên… Chất liệu văn chương của chúng tôi không phải là từ đơn đặt hàng của chế độ, hay những món hàng làm dáng du nhập từ ngoại quốc mà là sự thật bằng trái phá, bằng mồ mả oan khiên, bằng những người như chúng tôi bị nướng thiêu trong lò lửa chiến tranh.” (Về Những Trang Sách Cũ)...
*
Bài viết Trần Hoài Thư, Viết Dưới Trời Khói Lửa của tôi vào năm 2018. Bài viết khá dài vì khi phục vụ trong quân ngũ và cả khi sống ở hải ngoại, có thể nói trong thơ, văn của anh viết rất nhiều về đề tài nầy. Xin trích:
“Nhà văn, nhà báo Trần Hoài Thư được nhiều người viết và phỏng vấn vì anh chân tình trải lòng cùng bạn bè, người duy nhất ở hải ngoại làm sống lại văn học miền Nam và ấn hành những tác phẩm ở quê nhà bị bỏ quên theo năm tháng và không được xuất bản. Trong thời chiến, anh là cây bút duy nhất tham chiến tại mặt trận qua thơ, văn, ghi lại nhiều nhất những điều của người trong cuộc “Tôi là một tác giả viết văn làm thơ theo đôi giày trận. Nổi trôi từ Trường Sơn xuống tận đầm lầy Đồng Tháp Mười. Tôi nhìn bản thân mình, lấy kinh nghiệm của chính mình để mà thông cảm cùng những người cùng mang giòng máu như tôi…
Tôi là nhà văn sống và viết. Tôi tìm chất liệu ở con người thật của tôi. Tôi sống và viết bằng con người thật của tôi… Khi tôi ở trong quân đội, tôi viết về người lính, khi tôi đào ngũ, tôi viết về kẻ đào ngũ, khi tôi trở lại đơn vị bị giáng lon, thì viết về tâm trạng của người lao công chiến trường… Khi tôi bị thương nằm trong Quân Y Viện tôi viết về tâm trạng người thương binh, khi tôi ở trong trại khổ sai, tôi viết về sự thật cảnh tôi vồ chụp lấy thau cơm nhão nhẹt chua lè dành cho chó ăn ở bên hiên một doanh trại bộ đội Bắc Việt vì quá đói…”
Những bài thơ của anh trong thời khói lửa vẽ lên bức tranh thân phận người lính trong thời chiến.
Cả một đời, THT sống chân tình và trải lòng với đồng đôi, bằng hữu và đồng nghiệp, vì vậy anh được nhiều người đề cập đến qua các bài viết, phỏng vấn từ trước năm 1975 đến nay. (trong cuộc phỏng vấn của nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh, anh cho biết gọi là nhà thơ vì nó là nguồn cảm hứng đầu tiên trong sự nghiệp sáng tác)
Thư Quán Bản Thảo số 79, tháng 4 năm 2018. Trong mười bảy năm qua (TQBT 2001-2018) đây là số duy nhất do Phạm Văn Nhàn và bằng hữu thực hiện, anh “không được phép” viết và xem nội dung, chỉ lo việc ấn hành. TQBT số 79 dày 288 trang, gồm hai phần: Những truyện của THT trước năm 1975 (trang 7-156) và những người viết về THT (157-266)…
Trong bài viết của Tình Bạn của Phạm Văn Nhàn: “… Tôi đưa Thư ra Nha Trang trình diện nơi Quân Vụ Thị Trấn (đồn Quân Cảnh). Ra tòa án binh. Giáng cấp. Rồi đến Đơn Vị 2 Quản Trị, đóng ở Diên Khánh, Nha Trang. Và từ đây, Trần Hoài Thư nhận sự vụ lệnh lên Sư Đoàn 23 BB trên Ban Mê Thuột. Tôi nói với Thư: tránh vỏ dưa lại gặp vỏ dừa. Ngày tiễn Thư lên Ban Mê Thuột tại bến xe Nguyễn Hoàng, Nha Trang, tôi cởi chiếc jacket cho Thư mặc. Và có thêm hai người bạn tiễn Thư lên đường là nhà văn Nguyễn Âu Hồng và nhà thơ Nguyễn Nho Sa Mạc. Và cũng từ ngày hôm đó, tôi xa Trần Hoài Thư!”…
Tuổi thơ của THT không được may mắn “Ra đời tại Đà Lạt vào ngày 16 tháng 12 năm 1942, thất lạc cha ngay khi còn quá nhỏ, theo mẹ đến thành phố biển Nha Trang sống suốt thời thơ ấu rất đỗi cơ cực và hẩm hiu. Thời thơ ấu, từng bán hàng rong ở các bến xe ở Nha Trang, và từng đi bộ mỗi ngày khoảng 20 cây số để đi đến trường. Học trường Sinh Trung, Nam Tiểu Học Nha Trang và cuối cùng là trường Cô Nhi Viện Bết Lê Hem, Hòn Chồng, trước khi ra Huế gặp lại thân phụ từ Bắc di cư vào”.
Chỉ có thời gian yên lành trong thời trai trẻ “Ở Huế, theo học tại trường Quốc Học, Đại Học Huế, rồi trở vào Nam với Đại Học Khoa Học Sài Gòn. Không tốt nghiệp sư phạm, nhưng có duyên với bảng đen, phấn trắng, Trần Hoài Thư trở thành ông thầy dạy trung học và hành nghề tại trường Trần Cao Vân ở thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam, trong các niên khóa từ 1964 đến 1966”.
Bởi cái tội đam mê báo chí đó nên khi ở quân trường bỏ bê mấy môn học quân sự, bốc thăm chót bảng nhưng:
“Khóa của ta
Trên mấy trăm thằng tình nguyện
Đi Nhảy Dù, Thủy Bộ, Thám Báo ‘ác ôn’
Đứng đợi cả ngày để bốc lá thăm
Toàn thứ dữ mà vui như chợ Tết”
(Ta Lính Miền Nam)
Sau 4 năm lận đận với “nghiệp lính” từ Thám Kích, lao công đào binh… Năm 1971, được thuyên chuyển về miền Tây, phục vụ trong Khối Chiến Tranh Chính Trị của Quân Đoàn IV, làm phóng viên chiến trường cho đến ngày tan hàng. Đây cũng là cơ hội với “Những chuyến đi vào trận mạc, với máy ảnh và cây viết. Tôi đã viết nhiều truyện lấy từ chất liệu sống này” (THT). Và, nơi nầy anh gặp chị Nguyễn Ngọc Yến, người bạn đời đã sát cánh bên anh để khi định cư ở Mỹ, thực hiện các tác phẩm của Thư Ấn Quán và tạp chí Thư Quán Bản Thao cho đến khi lâm trọng bệnh, ngồi xe lăng, qua bao năm anh, con người lãng tử chấm dứt để tận tình chăm sóc hiền thê.
Vì thấy sao viết vậy, trước năm 1975, ngay cả những truyện ngắn của anh khi đăng báo Bách Khoa cũng bị kiểm duyệt, cắt bỏ vì vậy khi ra hải ngoại, anh thực hiện Thư Ấn Quán để làm sống lại những gì đã mất “Đối với tôi, những tác giả trong thời chiến là thiệt thòi nhất. Họ phải ra trận, vừa đánh giặc vừa viết, không có cơ hội để xuất bản. Sau năm 75 không ai đếm xỉa đến văn chương của họ. Tôi muốn lấy lại danh dự cho họ”. Và, Trần Hoài Thư đã dấn thân trong cộng việc nầy trở thành cầu nối cho những độc giả và những người làm văn nghệ nổi tiếng một thời trước năm 1975 ở miền Nam VN và sau 1975 không có điều kiện được tái bản, xuất bản… Những tác phẩm của Thư Ấn Quán và tạp chí Thư Quán Bản Thảo không bán mà do thân hữu, bạn văn “order”.
Hơn hai mươi tác phẩm thơ, văn của Trần Hoài Thư trước và sau năm 1975 đã đề cập qua nhiều bài viết nên không ghi ra ở đây.
Trong cơn binh lửa khốc liệt, người lính Thám Kích THT bày tỏ: “Những ngày cuối tháng 12, mưa tầm tã cả núi rừng, lẫn cùng những cơn gió miền núi hú loạn cuồng trên những thân cổ thụ trong rừng già. Sương mù che khuất cả tầm mắt, mãi đến trưa chúng tôi mới nhận ra chút cảnh tượng xung quanh. Những hàng dây leo thả xuống đất, hay quấn chằng chịt trên bãi hoang, mà theo mùa mưa, tranh, cỏ thi nhau mọc cao đến quá đầu người. Ban đêm, chúng tôi phải dựa vào gốc cây để ngủ hay ngả lưng một tí. Thường thường tôi không bao giờ chợp một giấc mà không bị thức dậy bởi những tiếng động khả nghi. Cuối cùng tôi cũng khám phá ra rằng, sinh vật vẫn còn hiện diện trong khu rừng này. Có thể là một con nai, hay một con gấu cũng nên…
Có nghĩa là tôi sẽ không còn phải mang con tim đập thình thịch trong bóng tối đen đặc và lạnh buốt của rừng. Đám lính ngủ ngon lành xung quanh. Họ coi chiến tranh như một trò chơi cũng nên. Họ chẳng cần bận tâm gì đến hiện tại. Hay họ nghĩ là tôi, tay toán trưởng toán thám báo đã thay họ và có trách nhiệm bảo vệ họ. Thường những đêm mưa như thế, trong poncho, dựa lưng vào gốc cổ thụ, tôi vẫn thường bị hành hạ bởi lũ sinh vật còn sót lại của rừng…
Trong những lần nhảy xâm nhập, thường thường mỗi chiều tôi đã chọn điểm đứng sẵn, yêu cầu bộ chỉ huy đại đội sửa lại tần số, và giả vờ rút sâu hơn vào rừng hơn, để trời vào tối chúng tôi lại kéo nhau ra. Chỉ có cách đó mới tránh những cặp mắt của địch. Chúng tôi còn giả cả tiếng kêu của loài thú như mật hiệu. Hạ sĩ nhất Nay Lat có biệt tài giả giọng chim cú mèo. Một tiếng kêu báo hiệu toán tiền sát hãy đi chậm. Hai tiếng kêu báo cho cả toán hãy dừng lại. Ba tiếng kêu giục toán phải đi nhanh hơn. Với những thằng nhảy toán như bọn tôi, sự sinh tử kề cận như lưỡi dao kê trên cổ. Chúng tôi phải tùy thuộc vào quyết định của trung đoàn trưởng, sư đoàn trưởng. Nói là lấy tin, báo cáo, dọ thám, thì không đúng. Họ dùng chúng tôi như những con vật thiêu thân cũng nên. Họ ném chúng tôi vào rừng để bảo đảm an ninh cho vòng đai của đơn vị họ. Họ để chúng tôi tự đối phó lấy. Trên nguyên tắc chiến thuật, nếu đụng trận thì lập tức sẽ có quân tiếp cứu, trực thăng yểm trợ bốc chúng tôi, hay phản lực dội bom. Nhưng cái chiến thuật ấy chỉ áp dụng ở đâu đó trên sách vở, hay lý thuyết…
 Tim ngực tôi đánh thình thịch. Gai đã làm quần tôi bị rách toẹt và cào đau tôi đến tê điếng. (Loại gai màu đen tuyền, nhỏ như lưỡi câu). Chúng tôi phải tìm đến những bụi gai chó đẻ này mà vạch lối, thay vì đường mòn để tránh những con mắt của địch. Thỉnh thoảng chúng tôi thấy những tờ giấy truyền đơn chiêu hồi của Tâm Lý Chiến nằm vương vãi… Tôi có thể đem cả toán ra khỏi rừng, tìm một chỗ an toàn, rồi báo cáo láo. Hay tôi có thể dừng lại ở đây, không tiến xa hơn nữa. Tôi không muốn tôi chết giữa lúc mọi người được sống. Dù trong cõi này, chúng tôi đã trở thành những kẻ đi tìm cái chết rồi. Có thể, ngày mai, nơi này sẽ trở thành bình địa, vì người ta tin tưởng không có mặt chúng tôi ở đây. Tôi thương những người lính của tôi. Họ cũng thương tôi. Họ không bao giờ bỏ tôi. Tôi biết. Họ cũng không bao giờ cãi lệnh tôi…
Thế mà hôm nay, họ cãi. Họ dừng lại, khựng lại, bất chấp. Hình như họ nghe. Họ linh cảm được một điều bất trắc trong rừng. Mắt họ hoảng sợ. Họ thì thào: “Thiếu úy, thiếu úy có nghe gì không?” Tôi nói tao không nghe gì. Họ nói: “Có tiếng hát.” Tôi cố gắng hết sức. Rõ ràng họ nói đúng. Tiếng hát. Theo gió. Khi dìu dặt. Khi mất. Khi còn. Tiếng hát của người con gái. Vẳng lên ở bên kia bờ suối. Càng lúc, tiếng hát càng cuốn lốc, âm thanh càng bay bổng, để người nghe càng phải lặng cả hồn, để tâm não như tê thiếp. Chúng tôi cùng hướng về tiếng hát, chui rúc lách mình trong những buị cây hay gai rậm lá. Tiếng hát càng lúc càng rõ. Và nhờ ống nhòm tôi có thể nhận ra một cặp trai gái đang ngồi bên nhau trên bờ suối. Người thanh niên trong bộ đồng phục ka ki Nam Định. Và người con gái cũng trong bộ đồ đồng phục lính nữ.
Thằng Nga, tên lực lưỡng nhất, nhìn tôi. Đôi mắt hắn như lờ đục. Hắn muốn thanh toán. Dễ quá mà. Nếu muốn, hai đứa sẽ bò qua bờ suối, ngậm theo dao găm. Rồi hai đứa bất ngờ nhào ra, bịt miệng… Không. Tôi không thể chơi cái trò dã man như vậy. Tôi muốn người thanh niên kia, ít ra, có một giờ phút vĩnh cửu. Hãy cho anh ta được giữ gìn một tiếng hát. Tiếng hát cất lên từ chốn u minh, hoà nhập cùng núi rừng, cùng cây cỏ, cùng gió Hạ Lào, cùng chiến tranh, cùng tuổi trẻ. Tiếng hát như nói lên những điều câm nín từ những con tim của tuổi trẻ Việt Nam… Tiếng hát như bạt cả gió, khiến rừng như thể im phăng phắc, lá như thể thôi lay động trên cành. Và ít ra, tôi vẫn còn hiểu rằng, mỗi người đều có trái tim. Và trái tim thì lúc nào cũng sống vĩnh cửu”.
Trong bài viết Đêm Của Thám Kích, tác giả cho thấy cuộc sống của người lính chiến như sợi chỉ treo mành, bên bờ tử sinh:
“Đêm còn lại chúng tôi đã tìm một nghĩa địa làng để trú quân. Vẫn là những mả mới mả cũ. Vẫn là những bia mộ người chết bên cạnh quan tài của những con người còn thở. Người chết muốn yên, muốn an giấc ngàn thu, muốn tiêu diêu miền cực lạc, nhưng vẫn không xong, vẫn bị đám thanh niên từ đâu mò đến gài mìn, chong súng quấy rầy… Còn bọn này, vui lắm. Chơi đùa với sinh tử. Bầu bạn với âm hồn…
Dù bộ quần áo be bết, giày lấm bùn non chưa khô, có thằng, quần bị rách chưa vá, nhưng mà, bọn này hiểu rõ hơn ai sức nặng của sông của núi. Núi sông đã làm rách quần rách áo, đã làm bạc trắng xác xơ màu vải trận, đã làm cổ áo đen bẩn vì mồ hôi lẫn đất bụi. Nỗi cực khổ này phải bỏ lên khay mà thờ mà lạy, mới phải…
Vẫn là những chữ nghĩa từ những tay trói gà không chặt, đêm ngày nặn óc moi tim để sáng tạo ra những bài văn, bài thơ, khẩu hiệu dính máu đỏ lòm. Nó không cho tuổi trẻ chúng tôi được yên. Nó lôi chúng tôi ra đấu tố giữa đêm hôm khuya khoắc…
Bài viết nầy đã đăng trên tạp chí Bách Khoa, điều khôi hài THT gọi danh từ riêng ông Tướng (nhân vật trong truyện). Tác giả chia sẻ “Truyện ngắn của tôi trên Bách Khoa, khi viết về một buổi chiều phục kích tại một bìa làng, tôi có cho nhân vật ông Tướng - người trung đội phó gốc Nùng (tên thật là Lương Văn Tướng) vào trong truyện. Chẳng hạn “này ông Tướng, hôm nay tổ nào trực”. Tôi viết chữ Tướng với T hoa. Vậy mà ngài sát thủ lại kết tội tôi chơi xỏ một ông tướng nào dó, bôi tất cả những chữ Tướng trong bài văn!…
Trong bài Mắt Đêm cho thấy lòng nhân đạo của người lính VNCH trong cơn lửa đạn: “Khi tổ tiền sát viên chạy đến gần chiếc cầu gỗ, ẩn dưới bờ mương, tôi bắt đầu cho tổ của trung sĩ Y Bok tiếp tục tiến chiếm gò mả để yểm trợ cho tổ đi sau. Bên kia chiếc cầu gỗ, xóm nhà xác xơ. Vài ngôi nhà ngói bị đổ nát, còn lại những đống gạch vụn, dưới ánh nắng chói chang. Đại Bàng ra lệnh trong máy C.25,  hãy dặn các con anh coi chừng, có mãng cầu nhiều lắm đó. Tôi ngoắc tay, ra hiệu người trung đội phó, làm một thủ lệnh sẵn sàng qua cầu. Đằng sau, trung đội 1 cũng bắt đầu tiến lên trên đám ruộng phía trái. Một chiếc L.19 đang bay đảo vòng trong bầu trời xanh lơ. Một trái khói trắng bốc lên cách gần tôi một trăm thước. Đó là quả đạn hiệu chỉnh của pháo binh. Tiếp đến là những quả dạn nổ long trời. Bụi cát bốc lên mù mịt. Đó là những quả đạn bắn hiệu quả.
Tôi áp người vào bờ mương, nghe thân thể rung động. Toán lính nằm dọc theo bờ, súng chĩa về ngôi làng. Tôi bặm môi, ra hiệu thằng mang máy đến gần, và báo cáo: Phú Sơn, đây Phú Sơn ba nghe không trả lời. Tôi báo cáo cho anh trình lại thẩm quyền, các con tôi sắp vượt qua cầu. Trình Đại Bàng cho yểm trở. Nghe rõ trả lời.
Bàn tay buông lỏng. Tiếng rè rè từ ống liên hợp cất lên: Tôi nghe năm trên năm. Bây giờ những quả đạn pháo binh nổ dồn dập. Những cột khói đen cuồn cuộn, quyện với hơi nóng rát mặt tỏa lên. Tôi được Đại Bàng bảo hãy chờ. Cho pháo binh cầy nát mục tiêu đã. Rồi mình qua. Tôi đáp, nghe năm trên măng, rồi nằm ngửa, súng đặt trên đùi. Tay lấy chiếc khăn, chiếc khăn màu lam mà Quỳnh đã gởi cho tôi trong lần chia ly cuối cùng, đẫm nước mắt, lau vội mặt kính nhem nhuốc nước bùn, tôi nghe nỗi kích thích lạ kỳ, tràn ngập trong từng tế bào, trong huyết quản. Thân thể bị lay động dưới sức nổ của đạn trái phá. Tôi xoay người lại, đặt đầu ống liên hợp vào tai lắng nghe những mẩu âm thoại dồn dập trong máy. Nắng đã bắt đầu lên, và cánh đồng trải dài nhảy múa trước mắt…
Tôi nằm trên miệng hầm, sát tai vào lớp đất. Có tiếng rục rịch khe khẽ. Tôi bảo Trung và cả tổ nằm chĩa súng xung quanh miệng. Tôi hét. Đồng bào ở dưới thì lên, bọn tôi tới giải phóng đồng bào. Đồng bào không lên, chết chịu. Tôi đếm từ một đến mười…
Tôi đếm một, hai, ba, bốn, năm. Đồng bào lên không. Trái lựu đạn cay của Trung được đưa ra, và miệng nó sắp rút chốt, thì người đàn bà hiện lên trong khoảng tranh mờ tối của cửa hầm. Mụ ta có bầu, trạc độ 39, 40 tuổi. Mụ vừa trồi đầu lên vừa chắp tay lạy: Lạy các ông, chúng con vô tội. Binh Hai hét: Còn bao nhiêu người ở dưới đó? Mụ rên rỉ: Dạ còn chừng bảy, tám người. Gia đình con cả. Tiếp đến một lũ người trồi đầu lên. Đi đầu là hai ông già, mấy người đàn bà, một đứa con gái còn nhỏ và mấy đứa con nít. Họ mang theo những chiếc va-li thiếc, những thúng đồ hoặc những túi vải bố. Tôi bảo lính dồn đám người về một góc.
Nắng chói lòa trên nền nhà đổ vụn và những mảnh chai phản chiếu một màu nhức nhối. Tôi cảm thấy khó chịu, khi những giọt mồ hôi bắt đầu ri rỉ xuống cổ. Mụ đàn bà cứ réo: Lạy các ông, các ông tha con. Binh nhất Hai lên đạn rắc rắc. Mụ nói các quan ơi tôi vô tội. Binh Hai vội đá cái va-li thiếc bay đi một khoảng và nói: Sao mụ có bầu. Chồng mụ ở đâu rồi. Mụ đàn bà vội nói: Chồng tôi, ảnh làm lính Quân Cụ ở Quy Nhơn. Tôi cười. Bao giờ cũng vậy, mỗi lần hành quân qua mỗi ngôi làng mất an ninh, chỉ thấy đàn bà, trẻ con và ông già bà lão. Đàn bà phần nhiều có chửa. Và một điều lạ, hỏi chồng bà ở đâu, chúng tôi chỉ nghe ảnh đi lính Quân Cụ, Quân Nhu, hay nằm bệnh viện. Lần này mụ đàn bà cũng nói như vậy. Tôi bảo lính lấy dao găm cạy va-li thiếc, lục soát. Nắp va-li được mở tung. Có một bộ ka-ki vàng. Binh Hai hét: Chồng mụ đi lính Quân Cụ hay đi giải phóng. Nói mau. Hắn sắp bạt tai, thì tôi vội ngăn lại. Tôi không thể chịu nổi những gương mặt thảm thê, những đôi mắt ngơ ngác sợ sệt đó. Mụ đàn bà nhìn tôi van lơn. Hai ông già tiếp tục nhìn ra cánh đồng chói nắng…
Tôi muốn nhắm mắt lại, ngủ một giấc, một giấc thôi. Mẹ tôi ở đó, những đêm ôm chặt tôi trốn dưới gầm giường. Đạn réo ngoài sân, ngoài ngõ, ngoài hiên. Đạn réo trên đầu, trên mùng, Mẹ tôi ở đó, trên sân nắng, hai tay để lên đầu, khóc lóc nhìn bọn lính Tây tra hỏi. Vẫn những giọt nước mắt, vẫn những tiếng khóc lóc, như một âm vang từ xa xôi vọng lại, từ một quê hương, một xóm làng đìu hiu. Tôi chống hai tay vào đầu gối, mệt nhọc đứng dậy.
Tôi nói: Thôi, để yên đó. Mùi thối từ ngôi nhà gạch bên cạnh bốc lên, đến buồn nôn. Có lẽ là một xác sinh vật nào đó. Những quả cà-nông vẫn tiếp tục dội về, như một cung  đàn buồn thảm. Chiếc L.19 vẫn rà rà trên đầu. Tôi đi về phía nhà sau. Toán lính đang lục soát trong nhà bếp…
Đến bốn giờ chiều, chúng tôi được lệnh mang số dân cư ngụ tại đây về vùng có an ninh. Trung đội tôi bọc chót. Tôi phải khổ tâm mới bảo họ lên đường. Những thúng gạo, nồi niêu, những bát chén, kèm theo những tiếng khóc nức nở. Tôi nghĩ đến một quê hương đã mất. Tôi phải bảo tính thúc từng người. Hình như không có người nào muốn đi. Cuối cùng đoàn người lục tục lên đường. Viên cố vấn Mỹ đi theo đại đội, đếm từng đầu người, rồi ghi trên sổ tay. Đồng ruộng trải dài, thỉnh thoảng vài hố bom cày, loang loáng nước. Đoàn người chậm chạp đi qua những con ruộng đất bùn…
Sáng hôm sau, tôi dắt trung đội đi lục soát khu vực toán kích nổ súng hồi đêm. Hy vọng sẽ tìm thêm một kẻ bị thương nằm lại đâu đó. Thằng Ngọc dắt tôi đến chỗ người bị bắn hồi đêm…
Một tháng sau, tôi cùng một thằng bạn lái xe jeep trở về thành phố. Chúng tôi ngồi trước hàng hiên của một tiệm giải khát. Tôi bỗng thấy đứa con gái nhỏ đứng trên lan can của một nhà tắm hơi. Tôi nhớ mang máng con bé bị tát tai trong chuyến hành quân trước. Con bé có mái tóc dài, dáng gầy, và đôi mắt ngơ ngác. Con bé gánh đôi thúng gạo nặng, hai chân lún sâu dưới bùn, lảo đảo bước đi. Con bé đứng dưới gốc đa. Bây giờ con bé đang đứng trên lan can một tiệm Tắm Hơi. Tôi đứng dậy, đá cái lon sữa, đá một cái thật mạnh”.
Bài viết về Ban Mê Thuột Ngày Đầu Ngày Cuối, Diều Hâu Bỏ Núi và Về Một Đại Đội Cũ vào thời đểm THT ở Quân Đoàn IV tháng Ba năm 1975 những sự kiện xảy ra gợi cho tác giả liên tưởng lại hình ảnh trong quá khứ để kết nối với hiện tại. Và với lối viết linh động như bản thân mình là người trong cuộc. Theo lời tác giả về Ban Mê Thuột… “Đây là một câu truyện được xây dựng từ những dữ kiện có thật theo lời kể của cựu thiếu úy trinh sát trung đoàn 45/SĐ23B và cũng là người bạn cùng một sư đoàn, Nguyễn Lương Sơn. Tác giả mong được nói lên phần nào về một biến cố lịch sử mà những người lính vô danh VNCH đã là những chứng nhân, và hơn nữa đã tham dự thật sự vào, bằng máu, nước mắt, kiêu hãnh và tủi nhục trong những ngày oan nghiệt nhất của lịch sử đất nước từ ngày đầu tiên 10/3 đến ngày cuối cùng 17/3/75 tại Ban Mê Thuột…
Đơn cử những trích đoạn trong những bài viết của Trần Hoài Thư về thân phận của người lính chiến mới cảm nhận những dòng thơ của anh. Trong thời chinh chiến trong thơ và văn của THT trước thực trạng bi thương trong cơn binh lửa.
Với chân dung về một người lính trong Trần Hoài Thư từ lúc còn trong quân trường, ra đơn vị tác chiến đến lúc buông súng. Thân phận người trai trong thời chiến qua bài thơ Thế Hệ Chiến Tranh:
“Thế hệ chúng tôi mang đầy vết sẹo
Vết sẹo ngoài thân và vết sẹo trong hồn
Không phạm tội mà ra tòa chung thẩm
Treo án tử hình ở tuổi thanh xuân
Thế hệ chúng tôi loài ngựa thồ bị xích
Hai mắt buồn che bởi tấm da trâu
Quá khứ tương lai, tháng ngày mất tích
Đàn ngựa rũ bờm không biết về đâu
… Thế hệ chúng tôi già như quả đất
Râu tóc mỗi ngày mọc những hoang mang…”
Cuộc sống của người lính tác chiến quá cơ cực, bóng tử thần rình rập nên:
“Chúng tôi sống, ngày là đêm, bóng tối
Trong hấm sâu, dưới địa đạo u minh
Hơi hụt hẫng, theo từng cơn địa chấn
Tai ù ù như bật vỡ âm thanh”
(Bóng Tối)
Từ một nhà giáo ốm yếu, cận thị, làm lính chiến vẫn bạt mạng, sống bất cần, vì vậy khi Nhảy Trực Thăng ở Phước Lý:
“Thì ta ra trận, ta ra trận
Trăm lần thì cũng chuyện rong chơi
Vẫn chuyến bốc quân vào buổi sớm
Vẫn chuyến trở về không buồn vui”
Hết nơi nầy đến nơi khác từ núi rừng đến sình lầy như Đêm Đột Kích Ở Nho Lâm:
“Đồng nước mênh mông, quân ngoi ngóp
Đêm đặc lòng như thuỷ mộ quan
Òa lên trái sáng run hơi thở
Nghiến chặt hàm răng về Nho Lâm
Ai dẫn đường đi sao khựng lại
Trời đen không thấy một vì sao
Bốn bề thăm thẳm lau cùng sậy
Những rặng tre mờ in bóng cao”
Người lính Thám Kích luôn luôn ứng trực, không có giờ giấc, đôi khi hành quân cả tháng, vừa về đơn vị lại lên đường Trước Giờ Tiếp Viện:
“Nửa đêm kẻng giục, quân ra trận
Kinh động cả lòng đêm tối bưng
Nhận lấy ba ngày cơm gạo sấy
Không buồn chỉ một chút bâng khuâng
Đời ta là con số không vô tận
May trên đầu còn chiếc mũ rừng
Mũ nhẹ nên coi đời cũng nhẹ
Chiến tranh. Thì cũng tựa phù vân”.
Hình ảnh sống thực của người lính Thám Kích nay đây, mai đó mới phác họa được thảm cảnh:
“Diều Hâu đã về như một lũ âm binh
Kẻ trước kẻ sau lao vào địa ngục
Đêm không thấy đường giữ dây khỏi lạc
Chúng tôi băng đồng nước ngập
Giải cứu quê em”
(Đêm Tiếp Cứu Chợ Huyện)
Sống sót lúc hành quân, được trở về hậu cứ như Đàn Ngựa Về Thành:
“Khi trở lại ngồi trong lòng quán tối
Thuốc vàng tay và vầng trán đăm chiêu
Thế hệ chúng tôi những đứa đôi mươi
Hồn đã mọc những nụ buồn rất sớm
Khi trở lại, dựa lưng vào vách quán
Để giọt buồn pha đậm tuổi suy tư
Chiếc mũ rừng che nửa mặt âm u…”
Cũng như những bài trong văn xuôi, thế hệ của anh sinh nhầm trong cuộc chiến nên phải cam chịu đao binh, bất hạnh… thay vì nguyền rủa nhưng vẫn tự hào:
“Tôi đứng giữa những nỗi buồn lịch sử
Lẫn tự hào của tuổi trẻ hôm qua”.
Với ngọn đồi mà người lính Thám Kích đã bao lần hành quân rồi trong lần trở lại với Đồi Xưa:
“Tôi qua đồi xám mây mờ núi
Thương về đâu một lũ sáo rừng
Hôm qua đồi ngập hàng trăm xác
Đạn pháo đào sâu bãi chiến trường

Có ai dưới lớp mồ hoang dã
Nằm xuôi chân mắt mở trợn trừng
Chiều nay sao mọc về phương Bắc
Sao ruột lòng vắt đỏ phương Nam
Cỏ tranh lớp lớp che đường dốc
Phòng tuyến buồn hiu nhuốm nắng chiều
Trận đánh cũng đi vào quên lãng
Sao còn rờn rợn những hồn xiêu”
Chiến tranh thật tàn khốc, trên đồi dưới sông đều là mồ chôn xác người. Những nơi người lính trận nhập cuộc đều là chứng nhân cho những nấm mồ.
Những địa danh trong vùng trách nhiệm đó, ngoại các địa danh có tên trên bản đồ, và một nơi nguy hiểm, gọi là Eo Chết:
“Địch cho Trung Đội qua eo chết
Hai bên sườn đại liên đan nhau

Cao điểm chiếm rồi
Vui mừng quá độ
Mà sao người lính Truyền Tin rơi lệ
Báo cáo trong tiếng mất tiếng còn
Về những thằng bị kiến cắn * ngủ yên”
(* Bị kiến cắn: Tử trận)
Địa danh Kỳ Sơn có nhiều nơi ở miền Bắc, và hình như chỉ ngọn đồi Bình Đinh mang tên nầy, cũng là nơi xảy ra hoạt động đơn vị của đối phương (Nông Trường 3 Sao Vàng) nên luôn luôn xảy ra nhiều cuộc đụng trận với nhau.
“Kỳ Sơn đồi trọc chim không đậu
Đại đội đi, một nửa không về
Lớp lớp người nhào lên, ngã gục
Đạn sủi bờ sủi đá, u mê

Kỳ Sơn ơi,  Kỳ Sơn Kỳ Sơn
Người chưa về tóc mẹ bạc như sương
Ngày sau ai nhớ cho dòng lệ
Kỳ Sơn ơi, Kỳ Sơn Kỳ Sơn…”
Đọc bài thơ Kỳ Sơn nầy nhớ bài Trường Sa Hành của Tô Thùy Yên:
“Trường Sa! Trường Sa! Đảo chuếnh choáng!
Thăm thẳm sầu vây trắng bốn bề.
Lính thú mươi người lạ sóng nước,
Đêm nằm còn tưởng đảo trôi đi…”.
Bài thơ Đêm Phục Kích Ở Luật Chánh cho thấy sự đối mặt với địch quân:
“Ráng thức, mắt ơi đừng nhắm nhé
Nơi nào cũng vậy, cũng hồn ma
Nơi nào cũng vậy, ngàn tinh tú
Nhoà nhạt trên cao, tựa mái nhà
… Trời hởi, thèm chao ơi giấc ngủ
Sao mà, ngực thình thịch nổ tung
Đêm nay dài quá, sao dài quá
Mà đám Sao Vàng chưa đến thăm?
… Ai biết đêm rồi ta trắng mắt
Để chuông chùa rộn rả bình minh?”
Lúc lâm trận, phải đối mặt nhau, súng đạn vô tình, ta không giết địch thì địch giết ta nhưng sau trận chiến, nhà thơ thể hiện tấm lòng nhân bản, hình ảnh cao đẹp của người lính chiến:
“Bắt tù binh mời điếu thuốc thơm
Để thấy miền Nam lính hiền ghê gớm”

Có một nơi nào hơn ở Việt Nam
Có người lính nào bi tráng hơn lính miền Nam”
(Ta Lính Miền Nam)
Một Ngày Không Hành Quân tìm niềm vui bên ly rượu để nhớ đồng đội đã ra đi và với đối phương cũng rót rượu thương xót:
“Cô hàng ơi cho một ly không
Tôi rót mời một người lính Bắc
Hắn nằm banh thây dưới hầm bí mật
Trên người vẫn còn sót lại bài thơ
Trên đồi cao, mây vẫn xanh lơ
Có con bướm vàng dịu dàng dưới nắng
Tôi với hắn, đâu có gì thống hận
Bài thơ nào cũng viết để yêu em”
Sau những năm làm lính Thám Kích với xác người, thây ma… với thương tích, tử sinh… thế mà Từ Biệt Núi Rừng vẫn còn mang theo hình ảnh:
“Từ biệt núi rừng, vùng đất khổ
Những ngày bùn đỏ bám giày saut…
… Mà sao cứ nhớ chùm lan dại
Giữa bãi hoang tàn vẫn nở hoa
Thôi nhé, Trường Sơn xin bỏ lại
Ta về châu thổ lội qua Miên
Bỏ lại trên vai hòn núi nặng
Cho những bạn bè đồng đội anh em”.
*
Thư Quán Bản Thảo số 1 ra đời tháng 10/2001 (ban đầu cùng với vài người bạn như Phạm Văn Nhàn, Trần Bang Thạch…) cũng là thời điểm không may khi xảy ra biến cố tang thương trong vụ khủng bố ngày 11 tháng 9 năm 2001, thường gọi là 911 nên ít được quan tâm nhưng với sự quyết tâm của THT đã được thực hiện đều đặn và quảng bá rộng rãi. Tạp chí Thư Quán Bản Thảo trung bình mỗi năm 4 số, số 107 vào tháng 12/2023.
Chị Nguyễn Ngọc Yến, người bạn đời đồng hành với anh THT cho TQBT và Thư Ấn Quán trong suốt cuộc hành trình nầy. Tháng 12 năm 2012, chị Nguyễn Ngọc Yến bị tai biến (stroke) nằm một chỗ, phải vào nursing home, mỗi ngày anh vào thăm vợ… Tuy lâm vào hoàn cảnh khó khăn, bất hạnh nhưng anh cố gắng chịu đựng. Chị còn khuyên anh tiếp tục thực hiện tạp chí Thư Quán Bản Thảo và tủ sách Di Sản Văn Chương Miền Nam.
Cho đến tháng 4 năm 2018, trải qua 5 năm, kể từ ngày ngã bệnh chị phải ngồi xe lăng, anh luôn luôn túc trực chăm sóc vợ. Nhiều lần đưa vợ vào nursing home nhưng anh lại không đành lòng sống thui thủi một mình ở nhà, quá trống vắng nên đem về, khi bệnh tình trở nặng, lại mang vô. Con trai duy nhất, bác sĩ, làm việc ở tiểu bang lân cận nên không có cơ hội gần gũi với cha mẹ. Theo lời anh: “Tôi phải lo nấu ăn để mang vào nursing home cho Y., mỗi ngày 2 lần, mỗi lần ở lại với Y. khoảng 90 phút. Khi ra về tôi vịn lan can mà lên. Cả chân tôi bị gout hành rồi thấp khớp hành, tối ngủ không được…”.
Với sự đồng tình của vợ, trong suốt những năm qua Thư Quán Bản Thảo vẫn ấn hành và Thư Ấn Quán vẫn tiếp tục thực hiện những tác phẩm của thân hữu. Có lẽ, vợ chồng THT là ‘cặp đôi” duy nhất ở hải ngoại có tấm lòng trong sáng, thiết tha đến việc bảo tồn văn học miền Nam trước năm 1975 ở hải ngoại.
Với THT, từ ngày làm lính trận, cận kề với cái ch

Thư viết gửi anh Trần Hoài Thư - Dec 2023 by Doãn Cẩm Liên

June 11
Thưa anh Trần Hoài Thư,

Đầu tiên em phải hỏi thăm thân thể anh đã bị mệt mỏi bao nhiêu phần trăm vì bệnh? Phải hỏi vậy để truy ngược lại mức độ “lì” của anh đấy chứ! Em phải nói một cách khẳng định là trên cõi đời này không ai bướng, chướng và cãi cọ rất giỏi với thần chết bằng Trần Hoài Thư. Chỉ có một mà thôi!

Hiếu và em đã nhận được Giai Phẩm 107 từ Ấn và Quỳnh Như gửi qua đường bưu điện. Em đọc liền tù tì những tạp ghi thời trước 1975 của anh. Em thích bài “Người Lính Đánh Giặc Viết Văn” vì nó cho em hiểu tính cách của người lính là “chấp hành tuyệt đối kỷ luật” và khi người lính cầm bút (Trần Hoài Thư) thì tính cách “bất chấp quân lệnh” một cách khơi khơi. Hai hành động đối nghịch nhau hoàn toàn nhưng lại Đúng với hoàn cảnh của anh. Em ủng hộ anh đó.

Qua bài viết Người Lính Đánh Giặc Viết Văn, ngòi bút và tờ giấy đã giúp người lính xả được nỗi bực dọc vì lệnh ngu xuẩn của cấp trên, truyền tải tình thương đồng đội và nỗi xót xa cho thân phận của lính… Thế nhưng cái bút của người lính ít được chính quyền chấp nhận vì nó dám nói thật. Mà sự thật chiến trường là điều kỵ trong thuật chiến tranh. Vì nó đã vẽ ra những cảnh tan thương chết chóc, sự yếu kém của người chỉ huy, những hình ảnh mà phòng chiến tranh chính trị hoàn toàn không thích. Thế là ngòi bút bị “cột” lại. Người lính THT là càng tức điên lên và càng viết hăng hơn trên những trang giấy vấy máu, mồ hôi và nước mắt của đồng đội và của chính mình!

Và rồi, những đoản văn chiến trường này chỉ được nhận và cho vào khuôn in ở báo Văn của ông Trần Phong Giao và tờ Bách Khoa của ông Lê Ngộ Châu. Bài “Những Ân Nhân Của Văn Chương Miền Nam Thời Chiến” cũng làm em thấy xao xuyến với sinh hoạt văn chương nghệ thuật thời ấy. Thấy rõ có sự khác biệt giữa Văn chương chiến trường và Văn chương đô thị mà anh hay nói. Mới thấy hai ông Lê Ngộ Châu và ông Trần Phong Giao cang trường vô cùng và yêu văn chương lính vô cùng mới dám nhận đăng những bài lính viết để rồi bị sử phạt bởi luật báo chí của chính quyền VNCH.

Em cười xòa ở phần anh Thư nói về văn học miền Nam là những nhóm Sáng Tạo, Hiện Đại, Thế Kỷ 20,… vì trong đó có bố Sỹ của em. Cười vì em biết anh có sự kính nhi mấy nhóm văn sĩ này, vì là họ sản xuất ra văn chương đô thị cho người đô thị. Họ không biết gì và không thể viết về chiến trường đổ máu, khốc liệt như thế nào, lính khổ lính buồn lính vui ra sao. Rõ là hai phương trời cách biệt!

Cuối cùng, cầm tờ Giai Phẩm 107 trên tay, em thấy: Bịnh tật chỉ làm anh Trần Hoài Thư làm việc càng điên cuồng một cách cương quyết. Lẽ dĩ nhiên nó không theo hơi thở, nhịp tim đập của anh mà nó theo cái ý muốn, cái ý chí của anh mà thôi. Cái này rất đặc trưng và coi như là “trade mark” Trần Hoài Thư. Trần Hoài Thư luôn chống chọi, cãi cọ với bất công và cả với tử thần nữa.

Mà hình như anh Trần Hoài Thư đã thắng thì phải!

Em Liên

California, ngày 25 tháng 12 - 2023



Thơ Tình Tuổi Tám Mươi – Trần Hoài Thư by Doãn Cẩm Liên

June 11
Thơ Tình Tuổi Tám Mươi – Trần Hoài Thư

“Ha haaa… một ông già gân, ông già chịu chơi, hay là ông già điên!” khi cầm trên tay Thơ Tình Tuổi Tám Mươi – Trần Hoài Thư, tập Thư Ấn Quán tháng 5 – 2022. Nhận xét đó thoạt đến và biến đi rất nhanh vì khi đã biết và hiểu đủ Trần Hoài Thư. Tình Yêu Tuổi Tám Mươi của chàng tám mươi này chỉ là hai chữ “THƯƠNG – YÊU” sâu đậm, mang nhiều ân nghĩa của cả hai nhân vật Yến và Trần Hoài Thư.

Bây giờ chẳng có mây bay

Bây giờ chẳng có móc ô mắt mèo

Bây giờ chỉ có bấy nhiêu

Một thân khô kiệt một trời oan gia

Bây giờ chỉ có đóa hoa

Mọc lên từ trái tim già 80.




Thơ tình hay lời than thở âm ỉ trong Trần Hoài Thư kể từ ngày Yến lâm nạn cho đến lúc phải vào nursing home và dài hơi cho đến ngày hôm nay. Ông không dùng lời trau chuốt, không cần vần điệu, chỉ là những tiếng nấc, tiếng gầm gừ trong cổ họng để nó thoát ra bằng câu thơ. Thơ tuôn ra càng nhanh là tháo bỏ càng nhiều nỗi niềm u uất chất chứa trong lòng.



Chỉ còn một cuốn làm quà riêng em

Nhưng em đã bỏ nợ phiền

Lấy ai để đọc thơ tình 80?

Có những lúc Trần Hoài Thư rên rỉ vì cái khổ nạn mà Yến phải chịu:

Chúa chết trên cây thập tự vì bị đóng đinh

Đinh đóng Chúa là đinh loài người ác độc

Còn em, trên chiếc giường chín năm không xê dịch.



Chúa chỉ một lần chết và sống: Phục Sinh

Còn em, em bao nhiêu lần trải qua sinh và tử.

Rồi có khi ông van xin Yến hãy sống để ông còn sống.

Khi năm ngón tay nàng siết chặt năm ngón tay tôi

Tôi biết rằng em không thể chết

Mình phải sống, sống để giúp tôi được sống

Để ngợi ca sự linh hiển của cuối cuộc đời…

Thơ Tình 80 của Trần Hoài Thư còn là câu chuyện chăm sóc Yến, nơi miếng ăn và cốc nước khi Yến còn chức năng căn bản của một con người: ăn, uống, nói…

Hắn dỗ dành bà ơi món canh này có bạc hà rau húng cá salmon

Có cả giò thủ bánh chưng do một nữ bác sĩ ở Cali gởi tặng

Ráng ăn nghe bà

Để tôi rót cho bà cốc nước

Để tôi lấy kéo cắt những cọng bún dài

Bà biết là tôi thương bà biết bao nhiêu không?

Chín mùa Đông Yến bị đau bệnh là chín mùa đau thương cô độc. Mùa Đông là mùa mang đến cho người đã cô độc thêm phần cô độc. Trần Hoài Thư đã từng chiến đấu với cộng sản là anh lính thám sát chiến trường. Trần Hoài Thư mở đường, tháo gỡ những trái mìn râu, những ổ chông, những mô những ụ.

Ngày ấy, ta mở đường cho thiên hạ

Nay thì mở đường cho ta

Ta không có công binh

Không lính tráng

Không truyền tin liên lạc khi cần

Chỉ có chăng là chiếc xẻng

Lồng ngực cạn dưỡng khí

Nhưng vẫn chiến thắng! Trần Hoài Thư đã chiến thắng ở trận chiến với quân thù thời xưa. Ngày nay Trần Hoài Thư cũng không chịu thua với những rào cản của thiên tai bão tuyết của vùng Đông Bắc Mỹ - New Jersey.



Tuyết cao cả hơn một thước

Chất chồng trên mui xe, trên nắp xe

Để ta vừa thở hào hển vừa run tay run chân

Múc quăng từng xẻn tuyết.

A! ta lại mở đường

Đừng bỏ cuộc…




Nhưng lại có lúc thua! Thua vì ông Thiên không chìu lòng kẻ cuồng si thương nhớ vợ trong cơn bão tuyết.

Nhưng mà hôm nay tôi xin đầu hàng

Tôi không thể làm gì hơn

Khi cả cái cây to tướng nằm ngang chắn đường

Tha lỗi cho tôi

Tôi không còn biết cách gì hơn

Ngoại trừ tháo lui, mình ạ.

Nói rằng khổ nạn nó lừng lững đi, đến đâu là quét sạch những vui tươi trong sáng của con người đến đó. Chúc mừng cho những ai tránh khỏi được nó. Phần xui xẻo, khổ nạn còn lại Trần Hoài Thư và Yến xin lãnh dùm cho mọi người. Yến đã lãnh trọn nỗi khổ trước rồi đến Trần Hoài Thư. Con đường Yến đã đi qua nay đến phần Trần Hoài Thư. Chàng bèn lãnh một cú strock vài năm tiếp sau Yến.

Cám ơn em về những món đồ em bỏ dở

Chiếc xe lăn, những thanh vịn bắt vào tường

Tôi thay em tiếp cuộc hành trình

Bước thấp bước cao vì đời quá mệt.

Đọc thơ tình của Trần Hoài Thư chỉ để nghe tiếng thở. Không hẳn là thở than mà là thở. Thở phì phò từ lồng ngực xẹp vì thiếu dưỡng khí. Thế nhưng thơ thì không thiếu. Thiếu sao được khi chàng thơ cương quyết làm thơ!

Thơ cương quyết tuôn trào ở bất kỳ nơi đâu. Sao lại có cây bồ kết ở cái xứ New Jersey lạnh lẽo này, để mà biến thành “Bồ kết trầm luân” “bồ kết khổ nạn” khổ nạn cho người nhớ hương bồ kết ở tóc nàng ngày xa xưa.

Bồ kết trầm luân

Bồ kết khổ nạn

Nấu trong chảo vạc dầu

Gội mái tóc của em

Để anh vừa đẩy xe tình vừa hít vào mùi thơm kỳ lạ và lòng rưng rưng nước mắt

Chúng ta ai mà chẳng biết Trần Hoài Thư đã từng làm cho IBM. Chàng giỏi vi tính, giỏi tính toán, giỏi tránh né. Thế mà cô đơn, “giặc cô đơn” lại làm chàng phủ phục. Những cú tránh né của chàng là đánh bạn cùng Face Book để dẹp giặc cô đơn. Thua đẹp! Thua vì nó mềm mại, luồn lách giỏi trong tâm.

Trần ơi, bạn đang nghĩ gì thế

Không, tôi không nghĩ, tôi quên

Hôm qua, tôi đập nồi quăng chén

Tôi phải làm gì, trời hỡi để quên

Để quên nên đầu quân Facebook

Xem như trò khuây khỏa rong chơi

Facebook nghĩa là trang “mặt-sách”

Mà “sách” này mặt lem luốc thê lương



Facebook giúp người thêm bạn hữu

Mà tôi, đã tàn tạ tâm hồn.

Nỗi cô độc gặm nhấm Trần Hoài Thư bằng những chuyện xưa tích cũ, chuyện đám cưới cùng Yến ở Sài Gòn.

Bước trái cất lên là giẫm vào lòng địa ngục

Bước phải cất lên là lấp ló cửa thiên đàng

Vậy mà anh về, anh về thật bình an

Để kịp ra mắt họ hàng trong ngày đám cưới

Xin cám ơn em đã phủ xuống đời anh bóng mát

Khi đời anh đã khô kiệt thanh xuân

Cám ơn em, đã tắt giùm tiếng nói Dạ Lan

Đã kê dưới đầu anh bằng chiếc gối bông gòn êm ái.

Chàng yêu Yến, không gì tả ra được. Có phải chăng do vì tình yêu đó nằm sâu trong tâm thức đâu cần nói ra. Nếu Yến vẫn là Yến nói cười, vẫn sống phơi phới thì Thơ tình của gã cuồng si chưa viết xuống đâu. Vì tấm chân tình của Yến đâu có chữ nào chuyên chở đủ. Yến, con chim lạc bầy rớt xuống cuộc đời của Trần Hoài Thư.

Một con chim yến xuống trần

Một con chim yến nợ nần với tôi.

Khổ nạn, họa vô đơn chí, phúc bất trùng lai, đã gắn liền hai nhân thế Trần Hoài Thư và Yến đến bao giờ? Gắn liền bằng tình yêu, bằng thơ tình, bằng hơi thở, cho dù hơi thở thiếu dưỡng khí… Và chắc là sẽ không có chữ “chấm dứt” cho đến khi… cả hai trở thành người “thiên cổ”!

Có lần độc giả này hỏi Trần Hoài Thư, “Khi nào chị Yến trăm tuổi, anh có muốn qua California ở cho ấm áp hơn, cho gần bạn bè hơn, và nhiều hoạt động văn nghệ hơn không?” “Không!” “Anh sẽ không bao giờ rời khỏi căn nhà này vì có máy vi tính, máy in, máy cắt, máy đóng gáy. Bởi vì lũ chúng nó là ‘con của anh’”. Nó giúp anh sống dài lâu thêm những ngày với phần nào âu sầu “khổ nạn” được chôn vùi!

Đó là một Trần Hoài Thư tám mươi tuổi. Một Trần Hoài Thư thở ra Thơ, thở vào ra Thơ để bù số dưỡng khí thiếu, để mà sinh tồn. Và để chúng ta hôm nay có Thơ Tình 80 Tuổi.

California, ngày 26 tháng 5 – 2022

Doãn Cẩm Liên

https://www.gio-o.com/Chung2/TranQuyPhietKhocThu.htm

June 9

Trần Quí Phiệt

Tiễn Biệt Em Tôi Trần Hoài Thư

Hôm nay (8 tháng 6 năm 2024) là ngày làm đám tang cho Trần Quí Sách, tức nhà văn Trần Hoài Thư, ở New Jersey. Xin trích sau đây đoạn văn ngắn trong hồi ký của tôi nói về tuổi thơ của Trần Hoài Thư để khóc tiễn biệt người em út tài hoa nhưng bất hạnh nhất trong gia tộc chúng tôi. 

            “Tôi chỉ nhớ sơ sài khoảng thời gian ngắn ngủi tản cư từ Dalat đến Phan Rang năm 1945 lúc được tin quân Pháp đổ bộ. Điều tôi nhớ nhất là mẹ tôi tỏ ra tháo vát hơn bao giờ hết. Đẻ nuôi sống gia đình, mẹ tôi và chị giúp việc mở một quán xép bán hàng ngoài chợ. Vì mẹ tôi ở ngoài chợ suốt ngày và không bảo tôi trông chừng em tôi nên nó tự do đi lang thang chơi trong xóm. Một buổi trưa tôi nghe tiếng một người đàn bà kêu to tên mẹ tôi bên ngoài. Khi chúng tôi chạy ra xem việc gì xảy ra mới biết bà ta mắng chửi mẹ tôi đã để em tôi đánh con bà chảy máu ở mắt (tôi thấy mắt thàng bé hơi đỏ) khi chúng nghịch với nhau. Bà ta giận dữ giơ tay dọa nạt chúng tôi. Mẹ tôi tức giận bảo tôi đi tìm em tôi đem về. Khi tìm đuọc em tôi, tôi tóm lấy tay nó kéo về nhà hết sức nhanh. Tôi trút cơn giận của tôi lên đầu em, không để ý gì đến em, chỉ kéo lê em như thế mãi đến khi về nhà mới thấy hai đầu gối của em rớm máu. Chao ôi! tại sao tôi tàn ác với em tôi như thế. Em tôi mới ba tuổi, đáng lẽ ra tôi phải nhẹ nhàng với nó. Đằng này tôi bắt em chạy theo tôi đến khi nó ngã quị, nhưng đôi mắt đen lánh vẫn trố nhìn tôi, không la khóc, có lẽ ngạc nhiên không hiểu sao anh nó hôm nay tàn ác với nó như thế.

            . . . . . . . .

            Ngày tôi theo cha tôi về Quảng Bình, em tôi ở lại với mẹ tôi. Thằng bé lúc gặp cha tôi không cho cha tôi bồng, nay òa khóc đòi đi theo chúng tôi. Tôi chảy nước mắt vì nhớ em và mẹ.” *

Chuyện xảy ra 80 năm nhớ lại như đang xảy ra bây giờ[PT1] , nhất là sau khi em tôi mất.  Đoạn văn trên biểu lộ số mạng và con người của Trần Hoài Thư sau này: gan lì, bất khuất, nhưng khốn khổ. Hồi ký của tôi bàng bạc chuyện người em tài hoa nhưng bất hạnh này. Điều nỗi bật nhất là em tôi rất mê viết văn và phóng sự đưa đến chuyện bỏ nhà đi lính thám kích để lấy cảm hứng viết văn. Tôi là anh cả cùng với Ba chúng tôi ngăn cản việc nầy nhưng không thành công. Tôi là nhà giáo cũng mê văn chương nên sau này đọc được tác phẩm đầu tay của chú là Nỗi bơ vơ của bầy ngựa hoang, tả nỗi cô đơn và bất hạnh của kiếp người, hết sức ái mộ văn tài của chú.

Em tôi, lúc cha chúng tôi còn sinh tiền, tuy không vâng lời ông cụ, nhưng lúc nào cũng lễ phép với cha già. Em hòa thuận với người em thứ hai của tôi hơn vì tuổi gần bằng nhau. Phần tôi là anh cả, tính hơi nghiêm khắc như ông cụ nên dạy dỗ em tôi nhiều lần,    nhưng sau mỗi lần cãi nhau em tôi giãi hòa với tôi trước.

Sách ơi, anh cứ tưởng trong ba anh em chúng ta người đi trước phải là anh. Em bị bệnh nan y, nhưng lần nào cũng qua khỏi một cách lạ kỳ. Chỉ nghe em cười xòa, nên tôi đoán rằng em sẽ không sao. Cách đây hơn tháng, sau khi Yến mất anh có gọi em và còn nghe giọng cười nói rỗn rãng. Thế mà, chỉ mấy hôm sau nghe cháu Hưng, con anh chị, nói bệnh chú trở nặng. Hôm nay anh phải lo cho chị bị bệnh, không lên thăm em lần cuối. Nhưng tối nào anh cũng cầu nguyện cho em. Anh khấn với Ba chúng ta như thế này: “Lạy Ba, Ty Ba em con nay đã về với Ba. Xin Ba dạy dỗ em để nó được chóng siêu thoát.” Anh cũng khấn với em như thế này: “Sách ơi, em đã thực hiện nhiều hoài bảo to lớn, được nhiều người cảm phục, yêu mến. Hãy thanh thản ra đi, trở về với Yến và Ba kính yêu của chúng ta.

Khóc tiễn người em tài hoa và bất hạnh của anh.   

________________

*Trích dịch từ hồi ký In Search of Lost Time [Đi tìm thời gian đã mất], chưa xuất bản.

Trần Quí Phiệt

Ngày 6, tháng 8, năm 2024

facebook tribute to my father

June 5
TÌM SÔNG
Giới thiệu: Gần hai mươi năm trước, ngày 12 tháng 11 năm 2004, anh Trần Hoài Thư viết một tin nhắn gởi BBT Talawas để “phàn nàn” về cách chọn lựa bài đăng mà anh cho là “không công bằng” đối với các văn nghệ sĩ miền Nam so với văn nghệ sĩ miền Bắc. Những “phàn nàn” này đã được BBT giải thích và bài của anh tiếp tục xuất hiện trên diễn đàn này. Dù sao, sau khi đọc tin nhắn của anh tôi đã viết một bài ngắn để bày tỏ lòng thông cảm với tâm trạng của một nhà văn Việt Nam Cộng Hòa. Sau bài viết ngắn đó, tôi không dừng lại mà tiếp tục viết thêm khoảng 30 bài nữa, phần lớn khá dài và đăng trong mục “Chiến tranh nhìn từ nhiều phía”. Tôi nợ BBT talawas một lời cám ơn vì đã giúp tôi sửa dấu chính tả và có khi cả những đề nghị thay đổi các đoạn văn cho rõ nghĩa hơn. Diễn đàn giá trị này đã ngưng sinh hoạt hơn chục năm nhưng website chưa đóng. Trong thập niên 1990, anh em chúng tôi trong giới cầm bút tại vùng Đông Bắc Hoa Kỳ sinh hoạt rất sinh động và gần gũi. Dù phải lái xe khoảng 4 tiếng, mọi sinh hoạt văn nghệ và cả gia đình anh chị Trần Hoài Thư đều đến dự. Anh ra đi để lại rất nhiều bài học giá trị về nhân cách con người, những đóng góp to lớn để bảo tồn văn học Việt Nam Cộng Hòa và lòng chung thủy. Mời đọc lại một kỷ niệm văn chương giữa hai anh em chúng tôi 20 năm trước.
............
Cách Boston ba giờ lái xe về phía Bắc có một địa điểm du lịch được gọi là Lost River. Thỉnh thoảng vào mùa lá vàng (foliage), trên đường đi xem lá rơi trên đỉnh White Mountain về, tôi và gia đình dừng lại ở Lost River. Chúng tôi có khi còn tham gia một trò chơi nhỏ gọi là tìm sông. Lý do, khi đứng trên mặt đất bạn chỉ thấy núi rừng trùng điệp chứ chẳng thấy sông hay suối nào cả. Nhưng nếu áp tai vào mặt đất để lắng nghe, bạn sẽ nghe tiếng nước chảy róc rách. Và nếu bạn chịu khó đi tìm theo những chiếc thang được đặt sâu vào lòng đá hoa cương, bạn sẽ ngạc nhiên khi thấy trong lòng núi, những con nước đang chảy. Nơi này là những tia nước nhỏ rỉ ra từ kẽ đá và nơi khác là một dòng nước mạnh hơn đang tuôn.
Chúng chảy một cách tội nghiệp, chảy một cách tức tưởi nhưng dường như không biết mệt mỏi là gì. Người ta bảo những con nước đó phát xuất từ một dòng sông lớn nhưng chảy lạc và mất dần trong rặng White Mountain. Dòng sông tưởng đã chết. Nhưng không, sau hàng trăm năm, những con nước nhỏ vẫn rỉ, vẫn chảy xuyên qua kẽ đá hoa cương. Và như thế, theo thời gian, kẽ đá bị đục lớn hơn. Những con nước nhỏ dần dần thông qua được, hội tụ vào sông lớn để chảy ra Đại Tây Dương.
Đọc bài viết ngắn của nhà văn Trần Hoài Thư về số phận hẩm hiu của các nhà văn, nhà thơ miền Nam sau 1975, tôi muốn viết vài dòng để chia sẻ với anh.
Thật ra, những ưu tư, thắc mắc của anh dễ hiểu và cũng rất dễ trả lời. Văn học Việt Nam cho đến nay vẫn là văn học của kẻ thắng trận và lịch sử Việt Nam vẫn đang được viết bởi kẻ thắng trận. "Ai giải thích được lịch sử thì kẻ đó thắng" như một người nào đó đã nói, và trong cùng ý nghĩa, kẻ thắng có độc quyền giải thích lịch sử.
Tôi cũng muốn nói với anh, văn học miền Nam, giống như dòng sông Lost River kia, tưởng đã chết, nhưng không, vẫn chảy trong chịu đựng âm thầm và bền bỉ.
Nhớ lại chuyện nước mình tháng 5 năm 1975. Khi đứng nhìn những tác phẩm văn học miền Nam, từ triết Tây của giáo sư Lê Tôn Nghiêm cho đến triết Đông của giáo sư Nguyễn Đăng Thục, từ truyện dài của các nhà văn trong Tự Lực Văn Đoàn cho đến các tác phẩm vừa in xong của các nhà văn thuộc nhóm Sáng Tạo, từ thơ Vũ Hoàng Chương cho đến thơ Trần Tuấn Kiệt bị tập trung để đem đi đốt trong chiến dịch gọi là "Bài trừ văn hóa đồi trụy", không ai nghĩ văn học miền Nam còn một cơ hội nào khác.
Nhưng rồi văn học miền Nam, đã theo chân những người cầm bút, ra biển. Nhờ đó mà chúng ta có Tháng ba gãy súng, Đại học máu, Thép đen, Ra biển gọi thầm, Lò cừ, Tôi phải sống và hàng trăm, hàng nghìn tác phẩm có tên và không có tên khác. Tác giả của chúng là những nhà văn miền Nam trước 1975, là những nhà văn vừa lớn lên ở hải ngoại, là những bác HO già ghi lại tháng năm tù, là những cô gái ngồi nhớ lại chặng đường vượt biên đầy nước mắt của mình. Bên cạnh giá trị văn chương, những tác phẩm đó còn chứa đựng giá trị của máu xương. Người đọc, dù đồng ý hay không, dù đứng bên này hay bên kia ngọn núi ý thức hệ, vẫn không thể phủ nhận sự hiện diện của những tác giả và tác phẩm đó trong dòng văn học Việt Nam hải ngoại như những chứng tích của một khoảng lịch sử đầy khắc nghiệt của dân tộc chúng ta.
Tôi thường nghe nhiều người tự nhận là những kẻ thức thời lớn tiếng: "Hãy quên đi quá khứ và hướng về tương lai". Ai không biết điều đó, nhưng có tương lai nào mà không bắt đầu từ quá khứ?
Trong khoảnh khắc chúng ta đang sống bao giờ cũng có bóng dáng của hôm qua và mầm mống của ngày mai.
Xin đừng nhân danh tuổi trẻ khi mình không còn trẻ nữa. Hãy để chính thế hệ trẻ Việt Nam được lên tiếng nói, được đọc và được sống như tuổi trẻ với tất cả đặc tính của thế hệ họ, nhiệt tình, nông nổi, bướng bỉnh và hướng thiện.
Tại sao ngăn cấm các em biết về quá khứ của cha ông chúng? Sang hay hèn, vinh hay nhục, công hay tội của những người đi trước, các em đều nên biết và cần phải biết. Biết không phải để sống vùi trong quá khứ nhưng để vượt qua, không phải để rồi giẫm lên những hầm hố nhưng để khỏi đặt chân vào.
Một số người cho rằng việc giới thiệu các tác phẩm nói về chiến tranh, tù ngục là khơi dậy lòng thù hận trong tuổi trẻ một cách không cần thiết và không thích hợp cho hướng phát triển của đất nước trong thời đại mới. Những ý kiến đó, nếu không phát xuất từ ước muốn thỏa hiệp, có thể từ lòng tốt. Vâng, không một người Việt Nam có lòng với đất nước nào muốn đào sâu chuyện thù hận, ân oán, trái lại, ai cũng mong được sớm xóa đi những phân hóa, ngăn cách trong lòng dân tộc Việt Nam. Nhưng thù hận không thể xóa bỏ bằng sự che đậy và chia rẽ không thể lấp kín bằng lãng quên mà phải bằng thái độ dám nhìn thẳng vào sự thật và nói lên sự thật.
Câu ngạn ngữ quen thuộc "Yêu nhau không phải chỉ nhìn nhau nhưng cùng nhìn về một hướng" thoạt nghe có vẻ cải lương nhưng lại thích hợp với những người Việt có lòng trong hoàn cảnh này. Người Việt có lòng đều thương nhau, đều nhìn nhau nhưng chưa thật sự cùng nhìn về một hướng. Do đó, để "giải oan cho cuộc biển dâu này", những người Việt quan tâm đến văn học và đất nước Việt Nam, trước hết, cũng nên tập nhìn về một hướng, hướng của sự thật.
Tôi được nghe kể lại chuyện một nhà nghiên cứu văn học trong nước thăm viếng thành phố Boston. Trong một buổi uống trà riêng tư với các nhà văn Việt Nam tị nạn ở đây, nhà nghiên cứu văn học này đã thú nhận, nếu không có dịp ra nước ngoài ông ta sẽ không bao giờ biết những gì đã xảy ra bên trong những trại tù mệnh danh là những "trại cải tạo". Và ông cũng thố lộ một cách thành thật, nếu không đọc các tác phẩm của văn nghệ sĩ Việt Nam ở nước ngoài, ông sẽ không biết có một dòng văn học gọi là văn học Việt Nam hải ngoại. Dòng nào chính thống, dòng nào lai căng, dòng nào dân tộc, dòng nào phản dân tộc, là phán xét của người đọc và của lịch sử. Đó không phải chỉ là chuyện ba mươi năm trước hay ba mươi năm sau, mà có thể của trăm năm hay ba trăm năm tới.
Nhà biên khảo văn học kia là một giáo sư văn chương, có phương tiện, được phép đi đây đi đó mà còn ngạc nhiên như thế, 50 triệu thanh niên Việt Nam sinh ra và lớn lên sau cuộc chiến và chưa bao giờ có dịp ra khỏi Việt Nam, sẽ hiểu thế nào về văn học miền Nam trước 1975 và ở hải ngoại hiện nay? Sự hiểu biết một chiều nào cũng dẫn đến ý thức cực đoan, và ý thức cực đoan nào cũng là tai họa cần tránh cho đất nước mình.
Cái giá để được ra biển của Lost River là phải đục xuyên qua rặng White Mountain dày nhiều cây số và cái giá để được tiếp tục sáng tác của văn nghệ sĩ miền Nam là kiên nhẫn chịu đựng, giẫm lên những bãi mìn biên giới, băng qua núi rừng, vượt qua biển cả, sống sót từ các trại Cổng Trời, An Điềm, Suối Máu, Hàm Tân.
Ba mươi năm sau, như Lost River vẫn chảy, nhịp tim của văn học Việt Nam hải ngoại vẫn đập đều nếu chúng ta biết lắng tai nghe.
Talawas 12.11.2004
Trần Trung Đạo
(Ảnh nhà văn Trần Hoài Thư do Trần Trung Đạo chụp tháng 9, 2013)


facebook tribute to my father

June 5
CĂN NHÀ XƯA” CỦA ANH CHỊ TRẦN HOÀI THƯ
Ba anh em chúng tôi, anh Nguyễn Ngọc Thanh và anh Dư Mỹ, trở lại “căn nhà xưa” của anh chị Trần Hoài Thư lần cuối cách đây cũng đã mười năm. Căn nhà đó tôi đã tới mấy lần, ngày con trai anh lập gia đình, ngày anh ra mắt sách v.v..
Căn nhà vẫn còn đó nhưng không có bàn tay chị Yến chăm sóc nữa. Chị bệnh nặng. Chậu hoa sứ nằm nghiêng bên bậc tam cấp vào nhà, anh cũng không buồn dựng lên. Chất sống duy nhất còn chảy trong anh là tình yêu không màu dành cho chị. Mọi hình thức khác đều vô nghĩa.
Tôi linh tính mùa mưa bão sắp thổi qua đây nên đề nghị anh ra vườn để bốn anh em chụp vài tấm hình kỷ niệm. Anh vui vẻ gật đầu. Khu vườn cỏ mọc đầy. Anh làm dáng, miệng cười hồn nhiên như trẻ thơ.
Sinh hoạt văn nghệ Boston có một thời hưng thịnh và sầm uất. Chúng tôi có quá nhiều kỷ niệm, có thể viết thành một cuốn sách khá dày.
Hôm qua anh em còn lại ở Boston ngồi ôn chuyện cũ. Nhớ và nhắc nhiều nhất vẫn là anh chị Trần Hoài Thư. Không chỉ vì anh chị vừa ra đi nhưng anh chị là biểu tượng sống động của tình yêu vợ chồng, tình yêu quê hương đất nước và lý tưởng của một đời người.
Mỗi người chúng ta đến đây để làm một số việc và đến một thời điểm nào đó sẽ ra đi. Công việc có thể làm chưa xong nhưng không sao các thế hệ Việt Nam khác sẽ lớn lên và làm tiếp.
Nhân Duyên mang chúng ta đến gần nhau trong cuộc sống này, dù vợ chồng, con cái trong gia đình, tình yêu, tình bạn hay chỉ là quen biết. Hãy sống và cư xử với nhau bao dung và từ ái vì có thể trong chốc lát nữa thôi mưa bão sẽ qua đây và đời mình sẽ khác.
Một ngày cách đây không lâu, tôi ôm đàn hát bài Căn Nhà Xưa của nhạc sĩ Nguyễn Đình Toàn. Mời anh chị em nghe với hình ảnh có anh chị Trần Hoài Thư trong các sinh hoạt văn nghệ đó đây.
Ttđ

facebook tribute to my father

June 5
Hoài Thư anh đã đi yên phận làm người
Chỉ chúng tôi người lính già còn ở lại
Trần gian này đâu có còn vui.
Mọi lần giờ Trang Facebook
Nhìn ảnh anh ngồi mờ Trang sách
Chị vẫn im lìm trên chiếc wheelchair.
Hoài Thư you have gone to heaven as a human
Only us old soldiers left
There is no fun in this world.
Every time Facebook Page
Looking at your picture sitting blurred on the pages of the book
She is still quiet in the wheelchair.

facebook tribute to my father.

June 5
Khoảng thập niên cuối thế kỷ Hai Mươi, tôi sinh hoạt nhiều trong giới văn chương. Riêng trong buổi sinh hoạt tại Boston, trong khi đang ở nhà nhà thơ Trần Trung Đạo, tôi đang ôm đàn hát ca thì nhà thơ nữ Thùy Trang mang tờ giấy với tám giòng thơ, chị ấy hỏi tôi nghĩ sao các câu thơ của chị. Chị ấy nói, có vẻ bị cải lương. Tôi đang ôm đàn nên hát luôn tám câu thơ ấy. Chị ấy sửng sốt, chạy đến anh Trần Hoài Thư. Anh Thư viết tiếp đi. Nhà thơ Trần Hoài Thư đã viết lên bốn câu. Thế là tôi hát tiếp. Tôi, trong dịp lên Montreal với anh chị nhà văn, thơ Nguyễn Bá Dĩnh, Thủy Trang, đã dùng thêm thơ của nhà thơ Nguyễn Bá Dĩnh (và của tôi) viết thành ca khúc.
Trong này, ca sĩ Thanh Tuyền (ca sĩ của cặp Thanh Tuyền, Đức Huy trước 1975, con gái của tài tử Đoàn Châu Mậu) đã hát ca khúc này tặng tôi.
Để cùng nhớ đến sinh hoạt văn chương và với anh Trần Hoài Thư.
Tặng Trần Trung Đạo
Gửi đến Trần Qúi Thoại, con trai anh Trần Hoài Thư (tục danh Trần Qúi Sách)
Tôi còn có một số ca khúc phổ thơ, riêng của Trần Hoài Thư nữa.

Kính tiễn Anh Cả Hoài Thư

June 3
Út Như Thương xin cúi đầu tiễn biệt Anh Cả Hoài Thư.
Xin chắp tay cầu nguyện cho Hương Linh Anh Cả được về Cõi Vãng Sanh.
Như Thương Florida .

My father working in basement - A story by Nhu Thuong

June 2
tran_hoai_thu.._0198d52b2e._may_trang_ve_troi_nhu_thuong_update_june_1_2024_0198d52b2e
Download
A visual story from Nhu Thuong about my father working in the  basement, printing many books and collections

Share a story

 
Add a document, picture, song, or video
Add an attachment Add a media attachment to your story
You can illustrate your story with a photo, video, song, or PDF document attachment.